- Tên Ebook: Dạy Trẻ Biết Đọc Sớm - Janet Doman Glenn Doman
- Loại file: PDF
- Dung lượng: 2 MB
- Số trang:
LINH TẢI:
TRÍCH DẪN:
2 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] LỜI GIỚI THIỆU Cho lần tái bản thứ ba Được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1964, cuốn sách này thực sự là mốc khởi đầu cho cuộc Cách mạng Mềm. Những ông bố bà mẹ tiên phong mê mải với cuốn sách. Họ là những người đầu tiên nhận ra đây là một cuộc phiêu lưu khám phá thế giới kì diệu và mênh mông của sự phát triển nói chung và trí não nói riêng của con trẻ. Những ông bố bà mẹ này biết rằng trẻ em thông minh hơn mọi người nghĩ nhiều. Vậy là họ bắt đầu tìm hiểu và họ đã làm được một việc tuyệt vời. Cuốn sách này ngày càng được xuất bản rộng rãi trên thế giới kể từ lần đầu tiên đạt 5 triệu bản trên 22 nước. Tất cả những điều được nhắc đến trong cuốn sách đều đã trở thành hiện thực dù đã hơn 40 năm trôi qua. Chỉ có duy nhất một thứ thay đổi. Ngày nay, có hàng chục nghìn trẻ em đủ mọi lứa tuổi học đọc từ rất sớm và sử dụng cuốn sách này. Kết quả là, có hàng nghìn bà mẹ đã viết thư cho chúng tôi kể về sự hào hứng, say mê và cả những trải nghiệm của mình trong quá trình dạy con đọc. Họ đã chia sẻ với chúng tôi kinh nghiệm, sự hân hoan và đôi khi là cả sự chán nản. Họ đã miêu tả cuộc cách mạng và những chiến thắng của chính mình. Bên cạnh đó, họ còn đặt ra nhiều vấn đề sâu sắc. Những bức thư như thế chính là nguồn kiến thức vô giá và sự hiểu biết tuyệt vời về thế giới trẻ thơ. Họ cũng là những minh chứng hùng hồn nhất trong lịch sử thế giới chứng minh rằng trẻ em có thể học đọc, nên học đọc và sẽ học đọc và điều quan trọng nhất là những gì sẽ xảy ra khi các em đến tuổi đi học và trưởng thành. Cuốn sách này cực kì quan trọng với thế hệ những ông bố bà mẹ trẻ hiện nay, những người luôn coi con cái mình là ưu tiên hàng đầu. Chương 7 của cuốn sách có thay đổi so với bản gốc, không phải là thay đổi về những nguyên tắc đã đưa ra trước đây mà chỉ là điều chỉnh chúng theo những kinh nghiệm phong phú của các bậc phụ huynh trên toàn thế giới. Chương 8 cũng là một chương hoàn toàn mới so với bản gốc với những chi tiết về các cách tiếp cận trẻ theo từng giai đoạn; sơ sinh, trẻ nhỏ và thiếu nhi Chương 9 cũng mới được bổ sung thêm phần trả lời hai câu hỏi thường gặp nhất khi dạy con đọc là: 1. Điều gì sẽ xảy ra khi các bé đến tuổi đi học? 2. Điều gì sẽ xảy ra khi các em trưởng thành? Đây là những câu trả lời từ chính bố mẹ. Chúng không được rút ra từ những vấn đề lí thuyết, mà chính là từ sự trải nghiệm thực tế với con cái của những vị phụ huynh tuyệt vời. Hãy vui vẻ nhẹ nhàng như làn gió và tận hưởng từng giây phút bên con bạn. Ở viện nghiên cứu, dù là nam hay nữ cũng không có một ai theo chủ nghĩa sô vanh. Chúng tôi yêu quí tất cả các vị phụ huynh và trẻ em, không phân biệt nam nữ. Để giải quyết vấn đề đau đầu là phải nhắc đến người khác như người đàn ông đã trưởng thành hay cô bé con, trong phần lớn cuốn sách này chúng tôi gọi các bậc phụ huynh là mẹ và gọi các bé là trẻ. Trân trọng Glenn Doman 4 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] LỜI TỰA Bắt đầu một dự án nghiên cứu cũng giống như lên một chuyến tàu mà chưa biết điểm đến. Chuyến hành trình ấy đầy bí ẩn và thú vị mà bạn sẽ không bao giờ biết được mình ngồi khoang hạng sang hay hạng ba, trên tàu có phục vụ bữa tối hay không, rồi nó sẽ chỉ tiêu tốn của bạn một đô la hay tất cả gia tài, và trên hết là sẽ kết thúc ở nơi bạn định đến hay một nơi bạn chưa bao giờ mơ tới. Khi các thành viên trong đoàn nghiên cứu của chúng tôi lên tàu ở những ga khác nhau, chúng tôi đều hy vọng rằng điểm đến cuối cùng sẽ là phương pháp trị liệu tốt hơn cho trẻ bị tổn thương não. Không ai trong chúng tôi nghĩ rằng nếu đạt được mục tiêu này, chúng tôi sẽ phải ngồi mãi trên tàu mà điểm đến là nơi những trẻ bị tổn thương não có thể giỏi hơn những trẻ bình thường. Chuyến đi này đã kéo dài nửa thế kỉ. Danh sách hành khách ban đầu chỉ có một bác sĩ phẫu thuật não, bác sĩ lý liệu pháp (chuyên về thuốc và hồi sức), một chuyên gia vật lí trị liệu, diễn giả, nhà tâm lí, nhà giáo dục và một y tá. Giờ đây thì đoàn đã có hơn 100 người với rất nhiều chuyên gia trong nhiều lĩnh vực. Chúng tôi bắt đầu bằng cách tiếp cận vấn đề cơ bản nhất mà nhưng trẻ em bị tổn thương não 50 năm trước phải đối mặt. Đó là vấn đề về sự nhận dạng. Có ba nhóm trẻ em gặp phải vấn đề này, và thường bị ghép vào chung một nhóm giống nhau. Thực tế chúng không phải là những anh em họ nhiều đời. Chúng được nhóm lại với nhau vì những lí do rất đơn giản như vẻ ngoài giống nhau và đôi khi là cả hành động giống nhau. Ba nhóm trẻ này gồm: nhóm trẻ bị tổn thương não, suy yếu cả về mặt chất lượng và số lượng; nhóm trẻ bị rối loạn tinh thần với bộ não bình thường về mặt thể chất nhưng không thể suy nghĩ và cuối cùng là nhóm trẻ bị tổn thương não dù có bộ não tốt nhưng lại bị tổn thương về thể chất. Chúng tôi chỉ quan tâm đến nhóm trẻ cuối cùng, nhóm vốn được cho là có bộ não hoàn hảo nhưng lại bị tổn thương. Chúng tôi nghiên cứu nhóm trẻ này là vì dù số lượng những trẻ bị thiếu hụt và rối loạn tinh thần thực sự còn ít nhưng đã có hàng trăm nghìn trẻ em đã và đang được chẩn đoán bị thiếu hụt và rối loạn tinh thần thực ra là bị tổn thương não. Nguyên nhân dẫn đến những chẩn đoán nhầm lẫn như vậy là do nhiều trẻ bị tổn thương tới não từ trước khi ra đời. Chúng tôi bắt đầu nghiên cứu khi đã có nhiều năm làm phẫu thuật và thăm khám bệnh nhân, và chúng tôi đã có thể đối diện trực tiếp với vấn đề tổn thương não. Chúng tôi đã phát hiện ra rằng việc tổn thương xuất hiện trước hay sau khi sinh chỉ là vấn đề nhỏ (ngoại trừ xét từ quan điểm nghiên cứu). Điều này cũng giống như quan tâm đến việc một đứa trẻ bị Ô tô đâm trước hay sau buổi trưa. Vấn đề thực sự ở đây là phần nào của não bị tổn thương, tổn thương đến mức độ nào và có thể làm gì với tổn thương ấy. Chúng tôi cũng thấy rằng việc não trẻ bị tổn thương do các nguyên nhân như bố mẹ bị Rh1 tương khắc, mẹ mắc sởi trong ba tháng đầu mang thai, thiếu hụt oxy lên não bào thai hay sinh non cũng không phải là vấn đề nghiêm trọng. Não cũng có thể bị tổn thương do lao động trong thời gian dài, do trẻ bị ngã đập đầu trong hai tháng đầu đời, bị sốt viêm não lúc 3 tuổi, bị xe đâm lúc 5 tuổi hoặc rất nhiều nguyên nhân khác. Từ trước đây, thế giới đã có quan điểm chữa trị cho những trẻ bị tổn thương não bằng cách điều trị những triệu chứng xuất hiện trong tai, mất, mũi, miệng, ngực, vai, khuỷu tay, cổ tay, ngón tay, hông, đầu gối, mắt cá và ngón chân. Hiện nay vẫn còn nhiều người trên thế giới tin vào cách điều trị này. Nhưng cách tiếp cận này không hề phát huy hiệu quả. 6 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] Do chưa thành công nên chúng tôi kết luận rằng nếu giải quyết các vấn đề của trẻ bị tổn thương não, chúng ta phải tìm hiểu nguồn gốc của những vấn đề ấy và tiếp cận não người. Dù mới nghe có thể thay cách giải quyết này là không thể và nhiều rủi ro, nhưng nhiều năm sau chúng tôi đã tìm ra những phương pháp điều trị phẫu thuật và không phải phẫu thuật cho não. Chúng tôi tin rằng điều trị các triệu chứng bệnh hoặc chấn thương là phản khoa học và bất hợp lí, và nếu tất cả những lí do này chỉ đủ để khiến chúng tôi thôi công kích thì vẫn có một sự thật tồn tại là cách tiếp cận trẻ bị tổn thương não như vậy không mang lại hiệu quả. Trái lại, chúng tôi cảm thấy mình có thể tự tìm hiểu vấn đề Những triệu chứng sẽ tự động biến mất khi chúng tôi thành công trong quá trình điều trị những tổn thương xuất hiện trong não. Đầu tiên, chúng tôi tiếp cận từ quan điểm không dùng phẫu thuật. Trong những năm nghiên cứu, chúng tôi đã bị thuyết phục rằng nếu có thể chữa trị thành công tổn thương trong não thì chúng tôi cũng phải tìm ra cách tái tạo mẫu phát triển thần kinh ở trê khỏe mạnh. Điều này nghĩa là phải hiểu được não của trẻ khỏe mạnh bắt đầu hình thành, phát triển và trưởng thành như thế nào. Chúng tôi đã nghiên cứu rất cẩn thận hàng trăm trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Khi đã biết được một bộ não bình thường phát triển như thế nào, chúng tôi bắt đầu tìm hiểu những hoạt động cơ bản và đơn giản nhưng quan trọng nhất với một đứa trẻ khỏe mạnh như bò, trườn. Chúng tôi nhận thấy nếu trẻ khỏe mạnh không có những hành động như vậy do các yếu tố xã hội, môi trường hay văn hóa thì khả năng của chúng sẽ bị hạn chế nghiêm trọng. Và khả năng của những trẻ bị tổn thương não còn bị ảnh hướng nhiều hơn. Khi nghiên cứu những cách tái tạo mẫu thể chất bình thường của quá trình trưởng thành, chúng tôi đã thấy trẻ bị tổn thương não có dấu hiệu cải thiện - dù chỉ rất nhỏ. Lúc này bằng cách phát triển những cách tiếp cận phẫu thuật thành công, chúng tôi đã đi đến quyết định là vấn đề nằm chính trong bộ não. Có nhiều nhóm trẻ bị tổn thương não với các vấn đề tự nhiên sẽ thường chết sớm. Đứng đầu nhóm này là bệnh tràn dịch não. Đầu của những trẻ này thường rất to do áp suất của chất lỏng trong não tủy sống khi lượng chất lỏng này không được hút lại do bị tổn thương. Không ai dại đến nỗi thử điều trị triệu chứng bệnh này bằng cách mat-xa hoặc tập thể dục. Do áp suất lên não tăng nên trẻ chắc chắn sẽ tử vong. Bác sĩ thần kinh của chúng tôi đã cùng một kĩ sư nghiên cứu loại ống có thể mang chất lỏng dư thừa trong não từ kho dự trữ được gọi là não thất nằm sâu bên trong não tới tĩnh mạch cảnh và chuyển vào máu, nơi chất lỏng có thể được hút lại theo cách bình thường. Chiếc ống này có van bên trong cho phép chất lỏng dư thừa chảy ra ngoài đồng thời ngăn cản máu chảy ngược về não. Đây thực sự là một thiết bị kì diệu được cấy ghép vào trong não có tên gọi "ống shunt V-J". Hơn 2.000 trẻ em đã được cứu sống nhờ chiếc ống đơn giản này. Nhiều em còn có thể tiếp tục sống hoàn toàn bình thường và đi học như các bạn khác. Đây là minh chứng rõ nét cho thấy việc điều trị các triệu chứng tổn thương não là hoàn toàn vô ích, cũng như sự logic đúng đần và cần thiết của cách điều trị trực tiếp não. Một phương pháp điều trị gây ngạc nhiên khác cũng sẽ là dẫn chứng cho phương pháp phẫu thuật não thành công mà ngày nay đang được sử dụng rộng rãi để điều trị tổn thương não cho trẻ. 8 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] Não có 2 bán cầu, bán cầu trái và bán cầu phải. Hai bán cầu này được chia tách ở ngay giữa đầu từ trước ra sau. Với những người khỏe mạnh, bán cầu não phải chịu trách nhiệm kiểm soát phần bên trái của cơ thể, còn bán cầu não trái thì chịu trách nhiệm điều khiển phần bên phải cơ thể. Nếu một trong hai bán cầu bị tổn thương ở bất kì mức độ nào thì hậu quả sẽ rất nghiêm trọng. Phần còn lại của cơ thể sẽ bị tê liệt, và các chức năng của trẻ sẽ bị giảm sút nghiêm trọng. Hiện nay có nhiều trẻ bị co giật, động kinh và không phản ứng với bất kì phương thuốc điều trị nào. Thật khó khăn khi phải nói ra một điều rằng những trẻ này cũng sẽ tử vong. Người ta chẳng làm gì ngoài việc cất tiếng khóc ai oán suốt những thập kỉ qua. Họ nghĩ rằng: "Khi một tế bào não đã chết, thì sẽ chẳng thể làm gì để cứu sống đứa trẻ cho nên đừng cố gắng". Nhưng đến năm l955, các thành viên phẫu thuật thần kinh của nhóm chúng tôi đã thực hiện một cuộc phẫu thuật không thể tin nổi với những trẻ như thế; nó được gọi là phẫu thuật tách bán cầu não. Đúng như tên gọi của nó, phẫu thuật tách bán cầu não sẽ tách riêng hai nửa bán cầu não. Lúc ấy chúng tôi nhìn thấy nhiều trẻ chỉ còn lại nửa bán cầu não trong đầu, còn một nửa kia với hàng tỷ tế bào não - những tế bào đã chết thì được đặt trong những chiếc lọ trong bệnh viện. Nhưng các em thì không chết. Thay vì đó, chúng tôi nhìn thấy những trẻ với nửa bán cầu não đi lại, trò chuyện và đi học như bao đứa trẻ bình thường khác. Những trẻ như vậy đều đạt kết quả học tập trên mức trung bình và " ít nhất có một em trong số đó có chỉ số IQ đáng nể. Trái với suy nghĩ của nhiều người, chúng tôi đều biết rằng, một trẻ có thể có tới 10 tế bào não bị chết và chúng ta không nhận ra điều đó. Có lẽ chúng ta phải nói rằng, em đó có 100 tế bào não bị chết và chúng ta không hề nhận thức được. Mà thậm chí là cả 1000. Có lẽ chưa bao giờ chúng ta dám mơ rằng một trẻ với hàng tỷ tế bào não bị chết vẫn có thể hoạt động tốt và thậm chí còn tốt hơn những đứa trẻ bình thường. Bây giờ thì độc giả hãy cùng tham gia với chúng tôi trong nghiên cứu này. Liệu bạn có thể quan sát johnny - một trẻ đã được phẫu thuật tách bán cầu não trong bao lâu, và so sánh với Billy - một trẻ bình thường mà không tự hỏi: "Có chuyện gì với Billy?". Vì sao Billy - đứa trẻ có đủ cả hai bán cầu não lại không thể hoạt động tốt gấp đôi hay ít ra thì cũng tốt hơn johnny. Quan sát điều này lặp đi lặp lại, chúng ta thấy những đứa trẻ bình thường cũng sẽ bắt đầu hoài nghi. Liệu những trẻ bình thường có thể làm tốt hết sức? Đây là một câu hỏi quan trọng mà chưa bao giờ chúng ta nghĩ tới. Đúng lúc ấy, những người không phải là bác sĩ phẫu thuật trong đoàn của chúng tôi đã thu được một lượng kiến thức rất lớn về việc trẻ em trưởng thành như thế nào và quá trình phát triển của não. Do những kiến thức cơ bản được bổ sung nên những phương pháp tái tạo đơn giản cho trẻ bị tổn thương não cũng được cải thiện. Giờ đây chúng tôi đã có thể nhìn thay một số ít những trẻ bị tổn thương não có thể đạt tới sự hoàn hảo bằng những phương pháp điều trị đơn giản không phải phẫu thuật giúp cải thiện và tiến bộ một cách ổn định. Mục đích của cuốn sách này không phải là đi vào chi tiết các khái niệm hay phương pháp giải quyết các vấn đề cho trẻ bị tổn thương não. Cuốn sách Làm gì khi con bạn bị tổn thương não? đã trình bày những vấn đề này. Tuy nhiên, giờ đây cũng có nhiều người nhận ra rằng trẻ em hoàn toàn có thể làm tốt hơn những gì chúng đang thể hiện. Có thể nói rằng những kĩ thuật cực 10 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] kì đơn giản đã giúp tái tạo sự phát triển bình thường ở những trẻ bị tổn thương não. Chúng ta cũng sớm nhận thấy những trẻ bị tổn thương não cũng có thể thể hiện không kém gì so với những trẻ bình thường. Vì những kĩ thuật này còn có thể cải thiện nhiều thứ hơn nữa nên chúng tôi bắt đầu nghiên cứu những trẻ bị tổn thương não không chỉ thể hiện được tốt như những trẻ bình thường mà còn khiến người ngoài khó có thể phân biệt được. Do đã có những kiến thức cơ bản về phẫu thuật thần kinh nên chúng tôi bắt đầu nghiên cứu cả những trẻ bị tổn thương não mà có thể thể hiện trên mức trung bình hay thậm chí ở mức xuất sắc. Điều này cực kì thú vị, thậm chí còn hơi sợ. Có vẻ như chúng ta đã đánh giá thấp khả năng của trẻ. Điều này đặt ra một câu hỏi thú vị. Hãy giả sử chúng ta đang quan sát ba đứa trẻ 7 tuổi: Albert, chỉ còn một nửa bán cầu não; Billy, não hoàn toàn bình thường; và Charley: đã được điều trị bằng phương pháp không phẫu thuật, hiện giờ có thể hoạt động bình thường dù đã có hàng triệu tế bào não bị chết. Hai cậu bé Albert, với nửa bán cầu não và Charley, có hàng triệu tế nào não bị chết đều thông minh như Billy. Vậy có điều gì không ổn với cậu bé hoàn toàn bình thường như Billy? Có gì không ổn với những đứa trẻ khỏe mạnh? Trong nhiều năm nghiên cứu, mỗi người chúng tôi đều cảm truy rung động trước những sự kiện hay khám phá quan trọng. Chúng tôi đã dần xua tan những đám mây mù bí ẩn bao quanh các trẻ em bị tổn thương não. Chúng tôi cũng tìm ra những sự thật mọi người chưa bao giờ nghĩ tới về những đứa trẻ khỏe mạnh. Một sự kết nối đầy logic đã hiện hữu giữa những trẻ bị tổn thương não (thần kinh bị mất tổ chức) và những trẻ khỏe mạnh (thần kinh có tổ chức), mà trước đây vốn chỉ là sự đứt đoạn) không có liên kết ở những trẻ khỏe mạnh. Chuỗi logic này đã vạch ra con đường để chúng ta có thể đem lại sự thay đổi tốt đẹp hơn cho loài người. Liệu tổ chức thần kinh của một trẻ bình thường có phải là điểm cuối của con đường này Giờ tuy những trẻ bị tổn thương não có thể thể hiện ngang bằng, thậm chí tốt hơn những trẻ khỏe mạnh, nên nhiều khả năng con đường này sẽ còn được kéo dài hơn nữa Người ta vẫn thường cho rằng sự phát triển thần kinh và sản phẩm cuối cùng của nó - khả năng – là một sự thật không thể thay đổi: Đứa bé này có khả năng còn đứa bé kia thì không. Đứa trẻ này thông minh còn đứa kia thì không. Và không có gì hơn ngoài sự thật ấy. Sự thật là, sự phát triển thần kinh, thứ vốn được coi là bất biến lại là một quá trình động và có thể thay đổi. Với những trẻ bị tổn thương não nặng, chúng ta thấy quá trình phát triển thần kinh hoàn toàn bị dừng lại. Còn ở trẻ "chậm phát triển" thì quá trình này bị chậm lại. Còn với trẻ bình thường thì quá trình này diễn ra với tốc độ trung bình, còn với trẻ xuất sắc, thì quá trình này diễn ra với tốc độ nhanh hơn. Giờ đây chúng ta nhận ra rằng, những trẻ bị tổn thương não, trẻ khỏe mạnh, trẻ xuất sắc không phải là ba nhóm trẻ em mà thay vào đó chúng đại diện cho quá trình liên tục từ thần kinh không có tổ chức do não bị tổn thương gây ra, thông qua giai đoạn thần kinh không tổ chức trung bình của não bình thường cho đến mức độ tổ chức thần kinh cao ở não của trẻ xuất sắc. Với trẻ bị tổn thương não, chúng tôi đã tái tạo thành công quá trình phát triển đã bị dừng lại, còn với trẻ có não chậm phát triển thì chúng tôi đã đẩy nhanh tốc độ hơn. 12 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] Rõ ràng quá trình phát triển thần kinh hoàn toàn có thể diễn ra nhanh hoặc chậm. Bằng phương pháp tái tạo đơn giản, chúng tôi đã giúp trẻ em bị tổn thương não từ chỗ thần kinh không có tổ chức lên đến mức tổ chức bình thường hoặc thậm chí còn ở mức độ cao hơn. Có nhiều lí do để chúng tôi tin rằng những chương trình như thế này có thể được sử dụng để tăng mức độ tổ chức thần kinh ở những trẻ bình thường. Và một phần trong chương trình ấy là dạy cho trẻ bị tổn thương não biết đọc. Chẳng có khi nào khả năng tổ chức thần kinh tăng lên rõ ràng hơn khi bạn dạy một em bé đọc. ĐÔI LỜI NHẮN GỬI Các bậc phụ huynh Bạn chẳng mất gì khi mơ một giấc mơ 40 năm trước đây chúng ta thường mơ về một thế giới toàn những trẻ em thông minh, khỏe mạnh về thể chất và giỏi giao thiệp trong xã hội. Chúng tôi biết rằng tất cả trẻ em đều có khả năng và tiềm năng tuyệt vời. Và chúng tôi cũng hoàn toàn bị thuyết phục rằng trẻ nhỏ có thể học được nếu người lớn có cách dạy chính xác. Hãy tưởng tượng rằng chúng ta không phải đợi đến 1000 sự biến động để có được những đứa trẻ như vậy mà chúng ta có thể nuôi dạy trẻ một cách có mục đích. Chúng tôi tin rằng nếu các vị phụ huynh biết não phát triển như thế nào và tại sao lại phát triển như thế thì chắc chắn họ sẽ tìm được hướng đi đúng đắn. Đôi khi bố mẹ sẵn sàng đánh đổi một chiếc xe mới, một kỳ nghỉ thú vị hay cả một cuộc sống ổn định hơn về tài chính để ở nhà dạy con học. Các ông bố bà mẹ của chúng ta tâm niệm rằng con cái luôn là ưu tiên số một, hơn bất cứ thứ gì trên thế giới này. Giờ đây chúng ta có thể nhìn lại chặng đường hơn 40 năm qua và tự hỏi chúng ta đã làm được những gì? Con cái chúng ta hiện giờ như thế nào? Có giỏi như chúng ta mong đợi? Liệu chúng có thể làm cho thế giới này tốt đẹp hơn? Và chúng sẽ trở thành những ông bố bà mẹ như thế nào? Một vài câu trả lời cho những câu hỏi này sẽ nằm trong phần ba của cuốn sách. 14 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] Liệu chúng có giỏi như chúng ta mong đợi? Câu trả lời là không, chúng không hề giỏi như chúng ta vẫn mong đợi. Mà chúng giỏi hơn rất nhiều. Trẻ em làm được nhiều điều khác biệt và thể hiện bản thân rất tốt. Khi đọc những câu chuyện của chúng trong các bức thư mà bố mẹ gửi đến, bạn sẽ thấy ấn tượng vì những đứa trẻ này sống thật thoải mái và tự tin, điều hiếm gặp trong giới trẻ ngày nay. ấn tượng của bạn hoàn toàn chính xác. Nhiều vị phụ huynh chia sẻ rằng được ở với con, dạy con học và nhìn thấy con lớn lên từng ngày là sự trải nghiệm tuyệt vời nhất trong cuộc đời họ. Nếu yêu thương, quan tâm đến trẻ hết mực và dạy chúng đọc thì liệu chúng có thể đáng yêu, nhạy cảm, thông minh hơn và có năng lực hơn các trẻ khác? Câu trả lời là có. Kể từ khi cuốn sách này được xuất bản lần đầu 40 năm trước đây, những ông bố bà mẹ dạy con đọc đã thu được những thành quả xứng đáng. Bạn đã làm được điều thật tuyệt vời. Bây giờ bạn có thêm 40 năm nữa để hưởng trái ngọt thành quả lao động của mình. Và đừng quên giữ những tấm thẻ đọc lại để dành cho cháu bạn. Bọn trẻ cũng làm rất tốt. Bạn đã khiến chúng tự hào. Và giờ đây hãy cùng nhau điều chỉnh thế giới này. Bạn dự đoán gì cho 40 năm tới? Hãy cùng bắt đầu mơ ước. CHƯƠNG 1: Tommy và những phát hiện thú vị Tôi đã nói là con bạn có thể đọc - LUNSKI Phúc Long Flashcard (http://phuclongflashcard.com ) xin trân trọng giới thiệu đọc giả bộ sách "Dạy trẻ biết đọc sớm" của giáo sư Glenn Doman. Cuộc Cách mạng Mềm này ban đầu không có chủ đích. Điều lạ là nó ra đời vào thời điểm cuối của một sự kiện. Trẻ em - nhân vật chính của cuộc cách mạng này lại không biết rằng mình có thể đọc được nếu có công cụ còn người lớn - những người sống trong ngành công nghiệp truyền hình thì lại không biết rằng trẻ em có khả năng này và chính ti vi sẽ cung cấp những công cụ cần thiết. Thiếu công cụ là nguyên nhân khiến cuộc cách mạng này phải rất lâu mới xảy ra, nhưng giờ thì nó đã đến rồi và các vị phụ huynh phải thúc đẩy cuộc cách mạng này, phải đẩy nhanh tốc độ để trẻ em có thể thu được thành quả của nó. Ti vi đã mang lại toàn bộ bí mật thông qua những chương trình quảng cáo. Kết quả là khi người đàn ông trong ti vi nói từ "vịnh" to và rõ ràng và màn hình cũng hiện chữ "vịnh" rất to thì tất cả trẻ em đều nhận biết được từ này dù chúng chưa biết chữ cái nào. Sự thật là những trẻ rất nhỏ hoàn toàn có thể học đọc. Có thể nói chắc chắn rằng, một đứa bé có thể đọc được miễn là bạn làm những chữ cái thật to ngay từ đầu. 16 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] Nhưng bây giờ chúng ta đều đã biết những điều này. Chúng ta đều biết mình phải làm gì đó vì những gì xảy ra khi chúng ta dạy trẻ đọc sẽ rất quan trọng với thế giới. Nhưng có đúng là trẻ hiểu ngôn ngữ nói dễ hơn ngôn ngữ viết? Cũng không hẳn. Não trẻ - cơ quan duy nhất có khả năng học, sẽ "nghe" được những từ to, rõ ràng trên truyền hình bằng tai và làm rõ chúng. Đồng thời, não trẻ sẽ nhìn thấy những chữ cái to, rõ ràng bằng mắt và cũng sẽ thể hiện y như vậy. Không có gì khác biệt với não khi "nhìn" một hình ảnh hay "nghe" âm thanh. Não có thể thực hiện tốt cả hai chức năng này. Chỉ cần âm thanh phải đủ to và rõ ràng để tai có thể nghe được, còn chữ cái cũng phải đủ to và rõ ràng để mắt có thể nhìn được - điều đầu tiên chúng ta đã làm được rồi, nhưng điều thứ hai thì chưa. Thường thì mọi người hay nói chuyện với trẻ em to hơn khi nói với người lớn, và chúng ta vẫn cứ làm như vậy vì bản năng nhận thấy trẻ em không thể nghe và hiểu được giọng nói hội thoại thông thường của người lớn. Mọi người thường hay nói to với trẻ, trẻ càng bé chúng ta nói càng to. Hãy ví dụ như trong một cuộc tranh luận, người lớn lại cố gắng nói nhẹ nhàng để trẻ không nghe thấy và hiểu được. Tuy nhiên, những âm thanh này vẫn đủ to để con đường truyền âm trở nên phức tạp để nghe và hiểu được khi trẻ lên 6. Trong hoàn cảnh này, có thể chúng ta sẽ cho trẻ kiểm tra nghe ở độ tuổi lên 6. Nếu trẻ nghe được mà không hiểu được từ (có thể do con đường âm thanh không phân biệt được những âm nhỏ) thì chúng ta có thể giới thiệu với trẻ ngôn ngữ nói bằng cách nói các chữ cái A, B . . . đến khi nào trê học hết bảng chữ cái, trước khi bắt đầu dạy trẻ nói các từ. Có thể nhiều trẻ gặp phải vấn đề khi nghe từ và câu, vì thế thay vì đọc cuốn sách nổi tiếng Vì sao Jobnny không đọc được (Why johnny Can't Read) của Rudolf Flesch, có lẽ chúng ta cần đọc cuốn Vì sao Jobnny không nghe được (Why ]ohnny Can't Hear). Trên đây chính là những điều chúng ta đã làm với ngôn ngữ viết. Chúng ta đã dùng chữ quá nhỏ để trẻ có thể nhìn và hiểu được. Bây giờ hãy đặt một giả thiết khác. Nếu chúng ta vừa nói thầm, vừa viết từ và câu thật to, rõ ràng thì trẻ cũng có thể đọc được nhưng sẽ không thể hiểu được ngôn ngữ nói. Hãy thử hình dung ti vi đang hiện những từ được viết rất to, đồng thời được đọc rất rõ. Một cách tự nhiên, trẻ có thể đọc từ nhưng nhiều trẻ sẽ bắt đầu hiểu được ngôn ngữ nói ở độ tuổi lên 2 hoặc lên 3. Và đó chính là những gì đang xảy ra hiện nay Ti vi cũng cho chúng ta biết nhiều điều thú vị về trẻ em. Đầu tiên là trẻ thường xem các chương trình dành riêng cho chúng nhưng không thể tập trung mãi; nhưng mọi người đều biết rằng khi đến các chương trình quảng cáo thì trẻ chạy ngay đến ti vi rồi nghe và đọc các thông tin liên quan đến sản phẩm được quảng cáo. Điểm mấu chốt ở đây không phải là các chương trình quảng cáo trên ti vi nhằm vào trẻ em 2 tuổi hay có cái gì đặc biệt cả. Sự thật là trẻ em có thể học được từ những chương trình quảng cáo với những chữ cái to, rõ ràng và âm thanh đủ lớn, những thông điệp được lặp đi lặp lại nên tất cả trẻ em đều rất ham xem. Trẻ thường thích học những gì hài hước mà đơn giản như phim hoạt hình Chuột Micky. Kết quả là, trẻ sẽ vô tình đọc bảng chữ "Vịnh", "Mc Donalds" hay Coca cola và nhiều kí hiệu khác. Bạn không cần phải đặt câu hỏi: "Liệu trẻ nhỏ có thể học đọc được không?. Chính chúng đã trả lời rằng chúng có thể". Câu hỏi nên hỏi ở đây là: chúng ta muốn trẻ đọc gì?. Chúng ta có nên cấm trẻ đọc tên các sản phẩm và thành 18 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] phần hóa học chứa trong các sản phẩm đó hay chúng ta cứ để trẻ đọc bất cứ thứ gì có thể làm cuộc sống của trẻ trở nên phong phú. Hãy đọc những điều cơ bản sau đây: 1. Trẻ nhỏ muốn học đọc. 2. Trẻ nhỏ có thể học đọc 3. Trẻ nhỏ đang học đọc 4. Trẻ nhỏ nên học đọc Chúng tôi dành bốn chương sách cho bốn vấn đề trên. Mỗi điều trong đó đều hoàn toàn đúng và cũng rất đơn giản. Có thể điều rất đơn giản này lại khiến chúng ta khó hiểu, thậm chí là khó tin, câu chuyện vô lí mà ông Lunski đã kể chúng ta nghe về Tommy. Thật lạ là chúng tôi mất khá nhiều thời gian mới chú ý đến ông Lunski vì lần đầu tiên nhìn thấy Tommy tại viện nghiên cứu, chúng tôi đã nhận thức được tất cả những gì cần biết để hiểu xem chuyện gì đang xảy ra với Tommy. Tommy là con thứ tư của ông Lunski. Trước đó ông bà Lunski không có nhiều thời gian quan tâm đến chuyện học hành ở trường và phải làm việc rất nỗ lực để nuôi ba đứa con xinh đẹp của mình. Đến khi Tommy ra đời, ông Lunski đã có một tiệm rượu và mọi việc đều rất ổn. Tuy nhiên, ngay tử khi mới sinh ra, não Tommy đã bị tổn thương rất nặng. Khi lên 2, em được đưa đi kiểm tra thần kinh tại một bệnh viện nổi tiếng ở New Jersey. Vị bác sĩ giải thích rằng các nghiên cứu của ông đã cho thấy Tommy chỉ như một đứa trẻ thực vật, không bao giờ có thể đi lại hoặc nói chuyện được vì thế nên đưa em vào một viện nghiên cứu. Tính quyết đoán của một người gốc Ba Lan đã khiến ông Lunski càng trở nên cứng nhắc. Ông đứng dậy và nói: "ông nhầm hết cả rồi bác sĩ ạ. Đây là con của chúng tôi" Nhà Lunski đã mất rất nhiều tháng để tìm ai đó có thể nói với họ rằng không cần thiết phải như vậy. Nhưng tất cả câu trả lời đều giống nhau. Tuy nhiên, trước lần sinh nhật 3 tuổi của Tommy, họ đã tìm được bác sĩ Eugene Spitz, Trưởng khoa Thần kinh của Viện Nhi Ở Philadelphia. Sau khi tiến hành nghiên cứu cẩn thận, bác sĩ Spitz cho biết Tommy bị tổn thương não rất nặng và có lẽ trung tâm nghiên cứu ở ngoại Ô Chestnut Hill có thể làm gì đó cho cậu bé. Tommy đến Viện Nghiên cứu Tiềm năng Con người khi mới 3 năm, 2 tuần tuổi. Cậu bé không thể đi lại hay nói chuyện được. Viện đã đánh giá các vấn đề tổng hợp và những tổn thương trong não Tommy. Một chương trình điều trị đã được tiến hành để tái tạo lại sự tăng trưởng, phát triển bình thường cho Tommy. Bố mẹ cậu bé cũng được hướng dẫn cách thực hiện chương trình này tại nhà và được dặn rằng nếu họ nghiêm túc thực hiện thì có thể Tommy sẽ cải thiện đáng kể. Hai tháng sau họ sẽ phải quay lại để kiểm tra và nếu Tommy có tiến triển thì sẽ có chương trình tổng hợp. Ông bà Lunski đã làm theo các chỉ dẫn rất nghiêm túc và cẩn thận. Khi họ trở lại lần thứ hai, Tommy đã có thể bò được. Bây giờ ông bà Lunski rất chăm chỉ tham gia chương trình này với hy vọng thành công. Họ quyết tâm đến mức nếu trên đường đến Philadelphia lần thứ ba mà xe bị hỏng thì họ sẽ mua một cái xe cũ và vẫn tiếp tục cuộc hành trình. Họ khó có thể đợi để nói với chúng tôi rằng Tommy giờ đã có thể nói được hai từ "mẹ" và "bố". 3 tuổi rưỡi Tommy đã có thể bò bằng tay và đầu gối. Sau đó, mẹ cậu bé đã cố gắng làm một số việc mà chỉ có người mẹ mới có thể làm với một đứa trẻ như Tommy. Cũng giống như một người bố mua cho con 20 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] mình quả bóng, mẹ Tommy mua cho cậu bé đã 3 tuổi rưỡi nhưng mới chỉ nói được hai từ một bảng chữ cái. Bà cho biết Tommy rất sáng dạ dù nó không đi, hay không nói được. Bất kì ai cũng có thể nhìn hay điều này bằng cách nhìn vào mắt cậu bé! Trong khi các nghiên cứu về sự thông minh của trẻ bị tổn thương não của chúng tôi có phạm vi rộng hơn của bà Lunski, nhưng cũng không chính xác hơn. Chúng tôi đồng ý rằng Tommy thông minh, những để dạy một cậu bé 3 tuổi rưỡi bị tổn thương não đọc tốt thì lại là vấn đề khác. Chúng tôi không chú ý lắm khi bà Lunski thông báo rằng lên 4 tuổi, Tommy có thể đọc được tất cả các từ trong sách chữ cái, thậm chí còn đơn giản hơn khi cậu bé đọc chữ cái. Chúng tôi quan tâm hơn đến khả năng nói của Tommy đang tiến bộ từng ngày cũng như khả năng di chuyển của cậu bé. Khi Tommy được 4 tuổi 2 tháng, bố cậu thông báo rằng cậu có thể đọc được cả quyển truyện Những quả trứng màu xanh và chiếc bánh hamburger (Green Eggs and Ham) của Seuss. Chúng tôi chỉ cười lịch sự và để ý thấy sự tiến bộ đáng kể trong lời nói và hoạt động của Tommy. Khi Tommy được 4 tuổi rưỡi, ông Lunski lại thông báo cậu bé có thể đọc được và đã đọc hết tất cả sách của Seuss. Chúng tôi đã thấy Tommy tiến bộ thật tuyệt vời, cũng như ông Lunski nói Tommy có thể đọc được. Khi đến trung tâm lần thứ 11, Tommy mới tổ chức sinh nhật tròn 5 tuổi. Dù chúng tôi và bác sĩ Spitz đều rất vui mừng với những tiến bộ mà cậu bé đã đạt được nhưng không có dấu hiệu nào của buổi viếng thăm này cho thấy hôm nay sẽ là một ngày quan trọng với tất cả trẻ em. Chẳng có gì ngoại trừ bản báo cáo vô lý của ông Lunski. Ông Lunski đã thông báo Tommy có thể đọc được bất cứ thứ gì, hơn nữa cậu bé có thể hiểu được, đặc biệt là ngay từ trước sinh nhật lần thứ 5. Một nhân viên nhà bếp mang đồ ăn trưa đến với nước quả và bánh hamburger đã cứu chúng tôi khỏi phải đưa ra lời nhận xét nào. ông Lunski thấy chúng tôi không phản ứng gì liên lấy trong ngăn kéo ra một tờ giấy và viết: "Glenn Doman thích uống nước cà chua và ăn bánh hamburger ". Tommy đã làm theo lời chỉ dẫn của cha mình, đọc câu này rất đơn giản với giọng đọc chính xác và truyền cảm. Cậu bé không hề ngại ngần như những cậu bé khác, đọc từng từ rời rạc và không hiểu nghĩa câu. "Ông hãy viết một câu khác đi", chúng tôi nói chậm rãi. Ông Lunski lại viết: "Bố Tommy thích uống bia và rượu whisky. Bụng ông rất to do uống rượu bia ở quán của Tommy". Tommy mới đọc to được ba từ đầu tiên thì đã cười phá lên. Phần buồn cười nhất là bụng của bố đã được viết xuống dòng thứ tư do ông Lunski viết chữ hoa. Thực sự cậu bé bị tổn thương não này đã đọc nhanh hơn nhiều so với khi cậu kể lại từng từ với giọng nói bình thường. Tommy không chỉ đọc, cậu còn đọc rất nhanh và tất nhiên là cũng hiểu nữa! Chúng tôi vô cùng kinh ngạc và quay sang ông Lunski. "Tôi đã bảo là Tommy có thể đọc mà", ông Lunski nói. Sau ngày hôm ấy, tất cả chúng tôi đều không còn như trước vì đây chính là vấn đề phức tạp nhất trong vòng 20 năm qua. Tommy đã cho chúng tôi thấy một đứa trẻ bị tổn thương não vẫn có thể đọc sớm hơn những đứa trẻ bình thường. Tất nhiên, ngay lập tức Tommy đã được kiểm tra trên diện rộng bởi một 22 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] nhóm các chuyên gia đến tử thủ đô Washington trong vòng một tuần. Tommy - một cậu bé mới chỉ 5 tuổi và bị tổn thương não có thể đọc hiểu tốt hơn một trẻ bình thường lớn gấp đôi tuổi em. Khi lên 6, Tommy đã đi được dù còn khá yếu và khó khăn, cậu bé đã đọc được sách trình độ lớp Sáu (tương đương với 11-12 tuổi). Tommy sẽ không phải ở trong viện nghiên cứu nữa nhưng bố mẹ cậu lại đang tìm một trường "đặc biệt" để cho cậu đi học vào tháng Chín tới. Một trường đặc biệt theo nghĩa tích cực chứ không phải một trường chuyên biệt. Cũng may là giờ có rất nhiều trường dành cho những trẻ có năng khiếu. Tommy bị tổn thương não và được bố mẹ yêu thương hết mực - những người luôn tin tưởng rằng ít ra thì một đứa trẻ cũng đang không thể hiện hết năng lực của mình. Cuối cùng, Tommy chính là chất xúc tác cho công trình nghiên cứu suất 20 năm. Có thể sẽ chính xác hơn khi nói rằng cậu bé đã châm ngòi cho sứ mệnh đã và Điều thú vị ở đây là Tommy rất thích đọc và tận hưởng từng khoảnh khắc tuyệt đang được phát triển từ 20 năm qua. vời ấy. CHƯƠNG 2 Trẻ nhỏ muốn học đọc Chúng tôi không thể bắt con dừng đọc từ bi cháu lên 3 tuổi - Bà GILCHRIST, MẸ BÉ MARY 4 TUỔI Chưa bào giờ trong lịch sử loài người, một nhà khoa học lại không tò mò bằng một đứa trẻ từ 18 tháng tuổi đến 4 tuổi. Người lớn chúng ta mắc căn bệnh tò mò với mọi thứ và đó là nguyên nhân thiếu khả năng tập trung. Tất nhiên, chúng ta quan sát trẻ rất kĩ nhưng không phải lúc nào cũng hiểu được hết những hành động của chúng. Đối với một vấn đề, mọi người thường dùng nhiều từ ngừ khác nhau cứ như thể chúng giống nhau vậy. Học và giáo dục là những từ như thế. Theo American Collecge Dictionary, từ học có nghĩa là: 1 "có được kiến thức nào đó bằng cách học, chỉ dẫn hoặc trải nghiệm. . . ". Còn từ giáo dục thì có nghĩa: " 1.phát triển khả năng bằng dạy học, hướng dẫn hoặc đến trường học. . . , và 2. cung cấp nền giáo dục cho ai; cho ai đi học. . . " Nói cách khác, học là quá trình của một người nếu muốn có được kiến thức, trong khi giáo dục lại là quá trình học được hướng dẫn bởi giáo viên hay trường lớp. Dù mọi người đều biết điều này, nhưng hai quá trình này thường bị cho là một. Vì thế đôi khi chúng ta cảm thấy rằng, độ tuổi đi học chính thức là 6 nên quá trình học - quá trình quan trọng hơn nhiều cũng sẽ bắt đầu ở độ tuổi này. Sự thật thì không phải như vậy. Sự thật là một đứa trẻ bắt đầu học ngay từ khi sinh ra. Đến năm 6 tuổi trẻ bắt đầu đến trường, trong khi đã tiếp thu những bài học thú vị, sự thật và có lẽ còn nhiều hơn những gì trẻ sẽ học trong suốt cuộc đời. 6 tuổi, trẻ đã học được hầu hết những điều cơ bản về bản thân mình và gia 24 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] đình. Trẻ cũng biết về hàng xóm và các mối quan hệ, về thế giới xung quanh và mối liên quan với nó cùng vô số những sự kiện không thể đếm được khác. Điển hình nhất là, trẻ đã học được một thứ tiếng và thậm chí còn hơn cả một (cơ hội này rất ít vì trẻ chỉ có thể học tốt một thứ tiếng khác sau 6 tuổi). Tất cả những điều này được trẻ tiếp thu trước khi tới trường. Nếu được khuyến khích và đánh giá cao, quá trình học trong giai đoạn này sẽ diễn ra với tốc độ không thể tin được. Chúng ta có thể làm mất đi khả năng học hỏi của trẻ bằng cách cô lập chúng. Đôi lúc chúng ta vẫn đọc thấy có trường hợp một cậu bé 13 tuổi được tìm thấy bị xích ở chân thường và người ta cho rằng cậu bé đó rất ngu ngốc. Trường hợp có thể ngược lại. Có vẻ như cậu ta ngốc thật vì cậu ta bị xích ở chân giường. Nhưng để nhận thức được vấn đề này chúng ta cần thấy rằng chỉ có những bố mẹ bị rối loạn tâm thần mới xích con như vậy. Bố mẹ xích con vì họ bị tâm thần và kết quả là trẻ sẽ bị tổn thương vì bị chối bỏ cơ hội được học. Chúng ta có thể loại bỏ khao khát học của trẻ bằng cách giới hạn những gì trẻ được trải nghiệm. Thật không may là gần như cả thế giới đều làm điều này bằng cách hạ thấp tất cả những gì trẻ có thể học. Chúng ta có thể tăng khả năng học của trẻ một cách đáng kể chỉ bằng cách đơn giản là loại bỏ các rào cản mà chúng ta đã áp đặt lên trẻ. Chúng ta còn có thể nhân lượng kiến thức trẻ tiếp thu và khả năng của trẻ lên nhiều lần nếu biết đánh giá cao khả năng học và cho trẻ cơ hội đồng thời khuyến khích trẻ học. Trong lịch sử đã có nhiều trẻ bị cách ly, nhưng cũng có nhiều trường hợp dạy trẻ con đọc và làm nhiều điều tuyệt vời khác bằng cách đánh giá cao và khuyến khích trẻ. Trong tất cả những trường hợp ấy, chúng ta đều thấy rằng kết quả của những việc làm như thế là trẻ học được vô số điều tuyệt vời và trẻ sẽ trở thành những người biết cách cân bằng và rất thông minh. Chúng ta nên nhớ rằng những trẻ này không phải là thông minh sẵn có rồi người lớn trao cho chúng cơ hội được học, thay vào đó bố mẹ chúng chỉ cung cấp nhiều thông tin hết mức có thể cho trẻ ở giai đoạn đầu đời. Hãy quan sát kĩ một đứa bé 18 tháng và xem nó làm gì. Đầu tiên nó làm mọi người xao lãng. Vì sao lại như vậy? Vì nó muốn tiếp tục tò mò. Nó không thể bị ngăn cản, kỉ luật hay kìm hãm mong muốn được học, dù chúng ta cố gắng thế nào đi chăng nữa và chắc chắn chúng ta phải rất cố gắng. Đứa bé muốn biết về cái đèn và tách cafe, về cái chao bóng đèn điện, về tờ báo. . . về tất cả mọi thứ trong phòng - nghĩa là nó có thể chạm vào bóng đèn, làm đổ cốc cafe, cho tay vào chao đèn và xé toạc tờ báo. Nó đang học hỏi một cách tự nhiên và chúng ta không thể ngăn cản. Từ cách trẻ làm, chúng ta kết luận rằng trẻ rất hiếu động và không thể tập trung chú ý, trong khi sự thật đơn giản chỉ là trẻ chú ý đến mọi thứ. Trẻ rất tỉnh táo khi học hỏi về mọi thứ xung quanh. Trẻ nhìn, nghe, cảm nhận, ngửi và nếm. Chẳng còn cách nào khác để học ngoài việc trẻ sử dụng cả năm cách này. Trẻ nhìn thấy chiếc đèn nên kéo nó xuống để cảm nhận, nghe, ngửi và nếm nó. Hãy cho trẻ cơ hội, trẻ sẽ làm tất cả những động tác này với cái đèn và cũng tương tự với các đồ vật khác trong phòng. Trẻ đang cố gắng hết sức để học và tất nhiên chúng ta cũng đang cố gắng hết sức để ngăn trẻ vì quá trình học này phải trả giá bằng nhiều thứ. Những ông bố bà mẹ chúng ta đã nghĩ ra một vài biện pháp để đối phó với sự tò mò của trẻ và thật không may là hầu hết những biện pháp đó lại đều đánh mất khả năng học của trẻ. 26 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] Biện pháp phổ biến đầu tiên là đưa cho trẻ một đồ chơi nào đó mà trẻ không thể làm vỡ được. Thông thường có thể là một cái xắc xô màu hồng rất đẹp, hoặc cũng có thể là một đồ chơi gì đó phức tạp hơn. Khi nhìn thấy, trẻ lập tức chú ý vào đồ chơi (đó là lí do tại sao đồ chơi thường có màu sáng), lắc lắc để xem có phát ra tiếng kêu gì không (vì thế mà xắc xô có tiếng kêu), cảm nhận nó (vì thế mà đồ chơi không có cạnh sắc nhọn), nếm nó (nên sơn trên đồ chơi không độc) và thậm chí là ngửi nó (chúng ta vẫn chưa biết được đồ chơi phải có mùi gì vì thế nên chúng ta không ngửi). Quá trình này của trẻ chỉ diễn ra trong khoảng 90 giây. Giờ thì trẻ đã biết tất cả những gì muốn biết về đồ chơi này và bắt đầu chuyển sang cái hộp đựng. Trẻ thấy cái hộp cũng thú vị như cái đồ chơi vậy, và tìm hiểu về cái hộp ấy - đó là lí do tại sao chúng ta nên mua đồ chơi để trong hộp. Quá trình này có thể cũng sẽ mất 90 giây. Thực tế là trẻ chú ý đến cái hộp nhiều hơn là đến đồ chơi. Vì trẻ được phép làm hỏng cái hộp và có thể còn biết cái hộp làm từ gì. Đây là ưu điểm mà trẻ không có được khi khám phá đồ chơi nếu làm hỏng đồ chơi thì khả năng học của trẻ tất nhiên sẽ giảm. Vì thế việc mua đồ chơi đựng trong hộp dường như là cách tốt để làm tăng gấp đôi khả năng chú ý của trẻ. Nhưng liệu chúng ta có cho trẻ cơ hội được làm quen với nhiều vật dụng như vậy không Câu trả lời thường là không. Nói ngẩn gọn, chúng ta phải kết luận rằng khả năng chú ý của trẻ liên quan đến số lượng đồ chúng ta đứa trê học hơn là để cho trẻ tin như chúng ta vẫn thường làm, và trẻ có thể sẽ chú ý rất lâu. Nếu quan sát một đứa trẻ, bạn sẽ thấy rất nhiều ví dụ như vậy. Thế nhưng, với rất nhiều ví dụ đập vào mắt như thế nhưng chúng ta vẫn thường đi đến kết luận rằng khi trẻ không chú ý lâu nghĩa là trẻ không thông minh. Điều suy luận này có nghĩa là trẻ (cũng giống như nhiều trẻ khác) không thông minh vì còn quá bé. Nhưng tự hỏi kết luận này của chúng ta là như thế nào nếu bắt gặp một đứa bé 2 tuổi ngồi chơi sắc xô một mình trong góc nhà suốt năm tiếng đồng hồ. Có lẽ bố mẹ của những trẻ như thế sẽ buồn lắm. Phương pháp phổ biến thứ hai mà người lớn thường hay sử dụng là cho trẻ vào một cái cũi đồ chơi. Thực ra thì cái cũi đồ chơi cũng chỉ là một cái cũi. Chúng ta nên tìm hiểu về những đồ như thế này và đừng nói rằng "Hãy mua cho con mình một cái cũi đồ chơi". Hãy nói sự thật và thừa nhận rằng chúng ta mua cho chính mình. Có một bộ phim hoạt hình, bà mẹ ngồi trong một cái cũi đồ chơi, đọc truyện và cười mãn nguyện trong khi đứa con ở ngoài không thể đến gần mẹ. Bộ phim hoạt hình này ngoài yếu tố hài hước còn nhắn gửi một sự thật khác: người mẹ đã biết về thế giới có thể bị cách ly trong khi đứa trẻ ở ngoài vẫn còn nhiều thứ phải học và có thể tiếp tục quá trình khám phá của mình. Chỉ rất ít bố mẹ nhận ra rằng một cái cũi đồ chơi thật sự có giá như thế nào. Cái cũi không chỉ cản trở khả năng tìm hiểu thế giới của trẻ mà một điều hiển nhiên là nó còn cản trở sự phát triển thần kinh do giới hạn khả năng bò của trẻ (một quá trình rất quan trọng đối với sự phát triển bình thường. Điều này dẫn tới sự phát triển tầm nhìn, khả năng dùng tay, hoạt động giữa tay và mắt và nhiều hoạt động khác cũng bị hạn chế. Chúng ta thường tự thuyết phục mình rằng mua cũi để bảo vệ trẻ khỏi bị đau nếu không may nhai phải dây điện hay bị ngã. Thực ra, chúng ta đang nhốt trẻ lại để không phải đảm bảo là trẻ đang an toàn. Chúng ta là những người khôn nhỏ nhưng dại lớn. Không biết là thông minh đến chừng nào nếu chúng ta sắm cho trẻ một cái cũi để cho trẻ bò và học trong suốt những năm tháng quan trọng của cuộc đời trong không gian chỉ dài 3.6m và rộng hơn 5m. Với một cái cũi như vậy, trẻ chỉ 28 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] có thể bò theo một đường thẳng 3.6m trước khi nhận ra mình đã ở đầu bên kia. Một chiếc cũi như thế tất nhiên là cũng thuận tiện với bố mẹ vì nó chỉ tốn diện tích một góc nhà. Chiếc cũi được sử dụng làm công cụ cản trở việc học của trẻ và không may là nó lại hiệu quả hơn nhiều so với sắc xô vì sau khi mất 90 giây để xem các đồ chơi mẹ đưa cho, trẻ sẽ ném nó đi. Vì thế chúng ta đã thành công trong việc không cho trẻ phá đồ (cũng là một cách trẻ học). Cách tiếp cận này sẽ khiến trẻ thiếu khả năng suy nghĩ, học hỏi và cũng sẽ không thể kéo dài được lâu do chúng ta không thể chịu nổi tiếng trẻ kêu gào đòi ra; hoặc là, cứ giả sử chúng ta có thể chịu đựng được thì đến khi trẻ đủ cao để trèo ra ngoài và lại tìm kiếm những điều mới mẻ thì sao? Vậy thì tất cả những điều trên đây có ám chỉ rằng chúng ta nên để trẻ làm vỡ cái đèn? Cũng không hẳn. Những điều này chỉ có nghĩa là chúng ta đang thiếu tôn trọng khao khát được học của trẻ, bất chấp tất cả những dấu hiệu rõ ràng mà trẻ đã bộc lộ rằng trẻ muốn được học tất cả mọi thứ, càng nhanh càng tốt. Những câu chuyện không có thật vẫn tiếp tục được sáng tạo và giúp khám phá ra nhiều điều. Có một câu chuyện về cậu bé 5 tuổi đang đứng trong sân trường thì máy bay bay ngang qua. Một cậu bé nói đó là máy bay siêu âm; những cậu bé khác thì không đồng ý vì sải cánh máy bay không rộng. Tiếng chuông vào học vang lên làm ngắt quãng cuộc tranh luận và một cậu bé nói "Chúng ta phải dừng tại đây và quay lại với chuỗi hạt kia". Câu chuyện này không có thật nhưng lại ám chỉ một điều. Hãy thử quan sát khi một đứa trẻ 3 tuổi hỏi bố: "Bố, sao mặt trời lại nóng ? " " Sao một người thế kia lại chui được vào ti vi? ",,, "Cái gì làm cho hoa nở? " Khi đứa trẻ còn đang thể hiện sự tò mò với sinh học, điện tử và thiên văn thì chúng ta lại thường bảo trẻ ra chỗ khác và đi chơi đồ chơi. Đồng thời lại kết luận rằng nó còn bé, có giải thích nó cũng không hiểu và nó cũng sẽ không nhớ gì cả. Ít ra thì chắc chắn nó cũng đã có đồ chơi rồi. Chúng ta thường rất thành công khi tách trẻ khỏi việc học trong giai đoạn mà trẻ thích học nhất của cuộc đời. Não người rất đặc biệt, có thể nói rằng nó như một cái hộp chứa mà bạn bỏ vào càng nhiều thì nó càng chứa được nhiều. Khoảng từ 9 tháng đến 4 tuổi, khả năng tiếp thu của trẻ không đồng đều, và mong muốn được học cũng cao hơn bất kì giai đoạn nào. Thế nhưng chúng ta lại luôn giữ cho trẻ sạch sẽ, được ăn ngon và an toàn với thế giới bên ngoài - và làm giảm khả năng học. Thật là mỉa mai khi trẻ lớn hơn, chúng ta lại chê trách trẻ ngu dốt khi không muốn học thiên văn, vật lí hay sinh học. Chúng ta sẽ nói với trẻ rằng, học là điều quan trọng nhất trên cuộc đời này và quả đúng là như vậy. Học cũng là trò chơi lớn nhất và vui nhất trong cuộc đời. Chúng ta thường nghĩ rằng trẻ ghét học vì hầu hết chúng ta đều không thích hoặc thậm chí còn khinh thường trường học. Một lần nữa chúng ta lại phạm sai lầm với việc học ở trường. Không phải trẻ em nào đến trường cũng học - cũng giống như là không phải tất cả trẻ em đang học đều làm thế ở trường. Theo kinh nghiệm của tôi thì lớp Một toàn là những thứ trẻ đã biết từ lâu rồi. Nói chung, các cô chỉ bảo trẻ đứng lên, ngồi xuống, giữ im lặng, chú ý nghe cô giảng, quá trình mà cô nói khá là vất vả với cả cô và trò nhưng sẽ giúp trẻ học được nhiều thứ. 30 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] Trong trường hợp của tôi, tài tiên đoán của cô giáo lớp Một có vẻ rất đúng; điều này khá là vất vả, ít nhất là trong 12 năm đầu, tôi không thích tí nào. Tôi chắc rằng không phải mình tôi có suy nghĩ ấy. Quá trình học nên là một trò chơi thực sự vui vẻ nhất trong cuộc đời. Dù sớm hay muộn những người thông minh cũng sẽ nhận ra điều này. Bạn sẽ nghe nhiều người nói rằng "Một ngày tuyệt vời! tôi học được rất nhiều điều mà trước đây chưa từng biết". Hoặc thậm chí cũng sẽ có người nói "Một ngày kinh khủng? Nhưng tôi đã học được vài điều Một kinh nghiệm mới đây được đúc kết từ hàng trăm trường hớp đã cho thấy trẻ nhỏ muốn học đến khi nào chúng không thể phân biệt được học và vui chơi. Chúng sẽ vẫn thích học đến khi bị người lớn thuyết phục rằng học không vui chút nào. Nhóm chúng tôi đã nghiên cứu một trẻ 3 tuổi bị tổn thương não trong nhiều tháng và cô bé đã tiến đến được thời kì nên cho cô bé học đọc. Việc học đọc rất quan trọng với khả năng phục hồi của cô bé này vì không thể ngăn một chức năng đơn lẻ nào của não mà không ảnh hưởng đến các chức năng khác. Ngược lại, nếu chúng ta dạy một trẻ bị tổn thương não đọc, chúng ta sẽ giúp tăng khả năng nói và các chức năng khác. Vì lí do này mà chúng ta nên để những trẻ như thế được học đọc. Cha của cô bé vẫn còn hoài nghi về việc dạy cô con gái 3 tuổi bị tổn thương não của mình học đọc. Ông chỉ bị thuyết phục khi khả năng nói và hoạt động thể chất của cô bé gần đây được cải thiện đáng kể. Quay lại kiểm tra sau hai tháng, ông đã vui mừng kể câu chuyện này: dù đã đồng ý làm như được hướng dẫn nhưng ông không tin rằng nó sẽ mang lại hiệu quả. Ông cũng quyết định rằng nếu ông cố gắng dạy đứa con bị tổn thương não của mình học đọc thì ông sẽ phải tạo ra một môi trường "giống như lớp học" Vì thế, ông đã xây một phòng học, có bàn, có bảng đen và bục giảng. ông cũng bảo cả cô con gái 7 tuổi của mình tham gia. Đúng như dự đoán, cô con gái 7 tuổi của ông mới nhìn thấy lớp học đã reo lên vui sướng. Cô bé có thứ đồ chơi lớn nhất trong khu vực này, lớn hơn cả một chiếc xe đẩy trẻ em, hơn cả ngôi nhà cho búp bê. Cô bé đã có trường của riêng mình. Tháng Bảy, cô bé sang nhà hàng xóm và tìm thêm năm đứa bé từ 3-5 tuổi để chơi "trường học". Tất nhiên bọn trẻ rất hào hứng và hứa sẽ ngoan ngoãn nên chúng có thể đi học như các anh các chị mình. Chúng chơi ở trường học năm ngày trong tuần trong suốt kì nghỉ hè. Cô bé 7 tuổi là cô giáo và những bé nhỏ hơn là học sinh. Bọn trẻ không bị bắt phải chơi trò chơi. Đây chỉ đơn giản là trò tuyệt nhất mà chúng từng được chơi. CHƯƠNG 3 Trẻ nhỏ có thể học đọc 32 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] Cách đây không lâu tôi thấy con gái mình Ngồi trong phòng khách và xem một cuốn Sách tiếng Pháp. Cháu nói với tôi rằng "Mẹ, con đã đọc hết sách tiếng Anh trong Nhà mình rồi" - BÀ GILCHRIST Trẻ nhỏ hoàn toàn có thể học đọc các từ, câu và đoạn theo cách chúng học nói các từ, câu và đoạn. Sự thật lại rất đơn giản - thú vị nhưng đơn giản. Chúng ta đã nói rằng mắt nhìn được nhưng không hiểu những gì đang nhìn và tai nghe được nhưng không hiểu những gì đang nghe. Chỉ có não mới hiểu. Khi tai nghe được một từ hay một thông điệp, thì thông điệp âm thanh này bị bẻ vỡ thành nhiều xung lực điện toán hóa học chuyển tới não, nơi sẽ tập hợp lại và hiểu theo nghĩa từ định truyền đạt. Cũng theo cách y như vậy, khi mắt nhìn thây một từ hoặc thông điệp, thông điệp hình ảnh này cũng bị bẻ vỡ thành nhiều xung lực điện toán hóa học và chuyển tới não để tập hợp lại và hiểu thông điệp. Bộ não thực sự là công cụ thần kì. Cả đường hình ảnh và âm thanh đều đi qua não, nơi cả hai thông điệp đều được chuyển hóa bằng quá trình giống nhau. Tính sắc bén của hình ảnh và âm thanh gần như không có ảnh hướng gì tới quá trình này, trừ khi chúng thực sự rất tồi. Có nhiều loại động vật có thể nghe hoặc nhìn tốt hơn con người. Tuy nhiên, dù có nhìn hoặc nghe tốt đến đâu thì một con tinh tinh cũng không thể đọc từ "tự do" bằng mắt hoặc nghe hiểu bằng tai. Não của nó không có khả năng này. Để hiểu về bộ não của loài người, chúng ta cần quan tâm đến thời kì bào thai hơn là lúc được sinh ra, vì quá trình hiểu của não phát triển từ giai đoạn này. Từ khi còn là bào thai, não người đã phát triển nhanh chóng và có các nếp gấp. Toàn bộ quá trình này sẽ hoàn thiện khi trẻ lên 6 tuổi. Ở giai đoạn bào thai, trứng được thụ tinh có kích cỡ rất nhỏ. 12 ngày sau, phôi sẽ đủ lớn để não được khu biệt. Quá trình này xảy ra từ trước khi người mẹ biết mình mang bầu nên tốc độ tăng trưởng rất nhanh. Dù tốc độ tăng trưởng nhanh như vậy, nhưng nó vẫn chậm hơn những ngày trước đó. Đến khi sinh, trẻ sẽ nặng khoảng 2,5kg đến 3kg, lớn hơn hàng triệu lần so với trứng ở giai đoạn bào thai chín tháng trước. Điều hiển nhiên là nếu trong chín tháng tiếp theo, tốc độ tăng trưởng vẫn được như chín tháng đầu thì trẻ sẽ nặng gấp hàng nghìn lần khi được chín tháng tuổi và gấp hàng triệu lần khi được 18 tháng. Quá trình phát triển của não phù hợp với mức tăng trưởng của cơ thể nhưng sẽ theo tỷ lệ giảm dần. Có thể nhận thấy rõ điều này khi so sánh tỷ lệ não trẻ em chiếm 11% trọng lượng cơ thể trong khi não người lớn chỉ chiếm 2,5%. Khi trẻ lên 5, tốc độ tăng trưởng của não đã hoàn thành được 80%. Còn khi trẻ lên 6 tuổi thì sự tăng trưởng này gần như đã hoàn thành. Từ 6-60 tuổi, tốc độ phát triển của não chậm hơn so với năm từ 5-6 tuổi (năm phát triển chậm nhất trong 6 năm đầu đời). Ngoài những kiến thức cơ bản về sự phát triển của bộ não, kiến thức về chức năng của não cũng rất quan trọng với loài người. Não người chỉ có sáu chức năng thần kinh, đồng thời đây cũng là những chức năng phân biệt con người với các loài động vật khác. Bề mặt não hay còn gọi là vỏ não có sáu chức năng. Những khả năng của con người sẽ được thể hiện trong sáu năm đầu đời. 34 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] 1. Chỉ con người mới đi thẳng được hoàn toàn. 2. Chỉ con người mới có ngôn ngữ trừu tượng và biểu tượng. 3. Chỉ con người mới có thể kết hợp khả năng làm việc bằng tay và những công cụ được liệt kê ở trên để viết chữ. Ba kĩ năng trên đây là bản chất vận động (thể hiện) và được dựa trên ba kĩ năng còn lại liên quan đến giác quan (cảm nhận). 4. Chỉ có con người mới hiểu ngôn ngữ trừu tượng và biểu tượng mà mình nghe được. 5. Chỉ con người mới đọc được ngôn ngữ trừu tượng khi nó thể hiện dưới dạng viết. 6. Chỉ có con người mới phân biệt được đồ vật bằng cách chạm vào nó. Một đứa trẻ 6 tuổi sẽ có khả năng của tất cả những chức năng này từ khi trẻ biết đi, nói, viết, đọc, hiểu ngôn ngữ nói và nhận dạng được đồ vật. Rõ ràng là từ thời điểm này chúng ta chỉ nói về sự tăng lên của sáu khả năng này ở con người chứ không phải là những chức năng mới bổ sung nào khác. Nói rộng ra, do cuộc đời của con người đều phụ thuộc vào sáu chức năng này nên việc tìm hiểu và miêu tả những giai đoạn khác nhau tạo nên một vòng đời là rất quan trọng. GIAI ĐOẠN TỪ 0-1 TUỔI Giai đoạn này rất quan trọng với toàn bộ tương lai của trẻ. Sự thật là chúng ta quan tâm cho trẻ ăn uống, giữ ấm và sạch sẽ nhưng lại không để ý đến sự phát triển thần kinh của trẻ. Nên làm gì với trẻ ở giai đoạn này có thể trở thành chủ đề cho cả cuốn sách. Chúng tôi đã nói rất nhiều về việc nên để cho trẻ có nhiều cơ hội được vận động, khám phá thể chất và trải nghiệm ở giai đoạn này. Nhưng xã hội và nền văn hóa hiện tại của chúng ta lại chối bỏ những cơ hội ấy của trẻ. Những cơ hội như thế khi được trao cho trẻ sẽ giúp trẻ phát triển thần kinh và thể chất. Khả năng thần kinh và thể chất sau này sẽ được quyết định chủ yếu ở giai đoạn này hơn bất kì giai đoạn nào khác trong đời. GIAI ĐOẠN TỪ 1-5 TUỔI Trong giai đoạn này, chúng ta luôn nâng niu chăm sóc để trẻ không bị đau, mua cho trẻ nhiều đồ chơi và đưa trẻ đi học mẫu giáo. Và hoàn toàn không nhận thức được rằng chúng ta đang cố hết sức để ngăn cản trẻ học. Những gì nên xảy ra với trẻ trong giai đoạn này là chúng ta nên giúp trẻ thỏa mãn niềm khao khát của mình, cung cấp cho trẻ những nguyên vật liệu dù ở bất cứ dạng gì, đặc biệt là về mặt ngôn ngữ, dù ở dạng nói, viết hay đọc. Trẻ nên học đọc ở thời kì này để có thể mở cánh cửa kho tàng vô giá của nhân loại đã có từ bao đời qua và làm chủ tri thức. Trong những năm tháng không thể lấy lại này - những năm tháng mà trí tò mò của trẻ là vô hạn thì toàn bộ trí thông minh sẽ được hình thành. Việc trẻ trở thành người như thế nào, trẻ thích gì và có khả năng gì sẽ được quyết định ở giai đoạn này. Ngoài ra còn vô vàn những yếu tố ảnh hưởng khác khi trẻ lớn lên. Bạn bè, xã hội và nền văn hóa có thể ảnh hưởng đến công việc trẻ chọn và một trong số những yếu tố này có thể ảnh hưởng không tốt đến khả năng của trê. Trong khi những yếu tố này có thể kết hợp để hạ thấp khả năng được tận hưởng cuộc sống khi trẻ lớn lên thì trẻ lại không thể làm tăng những khả năng đã được tạo dựng từ giai đoạn quan trọng này. Đó là lí do tại sao chúng ta cần cung cấp cho trẻ cơ hội nâng cao kiến thức để trẻ có thể tận hưởng tất cả những thứ quan trọng khác. 36 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] Thật nực cười khi nghĩ rằng nếu trí tò mò của một đứa trẻ được thỏa mãn theo cách nó rất thích thì chúng ta đang tước đoạt tuổi thơ quí giá của trẻ. Thái độ như vậy sẽ không đáng để đề cập đến nếu nó không thường xuyên xảy ra. Tuy nhiên cũng có một số ít những ông bố bà mẹ tin rằng, sẽ là đánh mất "tuổi thơ quí giá" của trẻ khi nhìn thấy trẻ hào hứng muốn đọc sách cùng mẹ , vậy với họ, "trẻ có tuổi thơ" là khi gào khóc đòi ra khỏi chiếc cũi hay khi trẻ chán ngay với cả núi đồ chơi trước mặt. Hơn nữa học trong giai đoạn tuổi này còn rất cần thiết và chúng ta đang cản trở bản chất tự nhiên khi cố gắng ngăn cản. Đây là điều cần thiết để trẻ tồn tại Một con mèo "nghịch" quả bóng len đơn giản chỉ vì nó coi quả bóng như vật thay thế cho con chuột. Còn khi một con chó cắn nhau với những con khác thì cũng chỉ là đang học cách tồn tại khi bị tấn công. Sự tồn tại trong thế giới loài người phụ thuộc vào khả năng giao tiếp, và ngôn ngữ chính là một công cụ để giao tiếp. Trò chơi của đứa trẻ cũng như trò chơi của con mèo đều nhằm mục đích học hơn là giải trí. Việc nắm được các hình thái của ngôn ngữ chính là một trong những mục đích đầu tiên trong những trò chơi của trẻ. Chúng ta phải quan sát cẩn thận vì những trò chơi như thế rất dễ bị nhầm là để giải trí. Nhu cầu học trong giai đoạn này của trẻ rất cần thiết. Chẳng phải thật tuyệt vời khi trẻ được tạo ra với bản chất ham học hay sao? Và có khủng khiếp không khi ta hiểu nhầm về một đứa trẻ và đặt ra quá nhiều rào cản với bản chất của trẻ. Từ 1-5 tuổi, bộ não của trẻ sẽ mở rộng để đón nhận mọi thông tin. Ở giai đoạn này, trẻ sẽ tiếp thu hết tất cả thông tin mà không phải nỗ lực phân loại. Trẻ có thể học đọc rất dễ dàng và tự nhiên, vì thế trẻ nên được tạocơ hội để học. Thời kì này trẻ còn có thể học ngoại ngữ, thậm chí là đến năm thứ tiếng. Nên cho trẻ học ngoại ngữ. Giai đoạn này trẻ học rất dễ, còn càng lớn sẽ càng khó khăn hơn. Ở lứa tuổi này trẻ cũng nên được tiếp cận với những thông tin cơ bản về ngôn ngữ viết mà trẻ sẽ phải cố gắng học trong bốn năm sau. Trẻ sẽ học nhanh và dễ dàng hơn. Chúng ta sẽ không bao giờ có lại cơ hội này. GIAI ĐOẠN TỪ 5 – 6 TUỔI Đây cũng là giai đoạn cực kì quan trọng tới cả cuộc đời của trẻ. Trong suốt thời kì này - thời kì kết thúc những ngày tháng dễ chỉ bảo, uốn nần, trẻ sẽ bắt đầu đi học. Thật là một thời kì khó khăn! Mọi người không nhớ gì về quãng đời này dù nó đã xảy ra từ bao lâu đi chăng nữa? Đi học mẫu giáo và những năm sau đó luôn là kí ức sớm nhất mà người lớn lưu giữ. Nhưng người ta lại thường không nhớ đến với sự hào hứng. Vì sao lại như vậy, khi mà trẻ rất thích học? Liệu chúng ta có thể hiểu, điều này nghĩa là trẻ không thích học? Hay nó ám chỉ rằng chúng ta đang mắc phải một lỗi rất cơ bản và quan trọng? Vậy thì lỗi đó có thể là gì? Hãy thử tìm hiểu sự thật. Trong một số trường hợp, chúng ta thường đưa trẻ, ít khi được ra ngoài khỏi môi trường gia đình, đến một môi trường xã hội hoàn toàn mới. Sẽ là một bản cáo trạng về hạnh phúc gia đình nếu trẻ đi học mà không cảm thấy nhớ nhà hay nhớ mẹ trong suốt giai đoạn này. Đồng thời, chúng ta bắt đầu giới thiệu với trẻ những nguyên tắc kỉ luật và nền giáo dục đầu đời. Chúng ta phải nhớ rằng trẻ em có khả năng học rất lâu nhưng đánh giá thì rất ngắn. Kết quả là trẻ phải chịu đựng sự không vui vẻ gì khi phải xa mẹ và đến 38 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] với nền giáo dục mới, vì thế từ giai đoạn này trẻ sẽ bắt đầu học với niềm hạnh phúc mơ hồ. Đây khó có thể là một khởi đầu tốt đẹp cho công việc quan trọng nhất trong đời. Bằng cách này chúng ta cũng đã trao cho giáo viên một khối lượng công việc nặng nề. Thật đáng lo là giáo viên lại thực hiện công việc này với sự độc đoán chứ không phải niềm đam mê. Họ đã thể hiện điều này ngay từ lần đầu tiên vào lớp. Sẽ tốt hơn cho học sinh, giáo viên và cả thế giới này biết bao nhiêu nếu ngay từ những ngày đầu đến trường, học sinh đã đạt được và duy trì niềm say mê học hành. Nếu được như vậy thì niềm say mê đọc và học của trẻ sẽ tăng lên và tiến lên phía trước rất xa để hạn chế tối đa gánh nặng tâm lí khi rời xa sự che chở của mẹ. Thực tế, khi cho trẻ học ở giai đoạn đầu đời, bạn sẽ rất hài lòng khi thấy rằng sự say mê học ở trẻ sẽ trở thành tình yêu đối với trường học. Một điều hiển nhiên nữa là khi trẻ không thấy khỏe, chúng thường giấu mẹ (nhưng ít khi giấu được) để chúng không phải nghỉ học ở nhà. Đây là điều thật đáng mừng, ngược với thế hệ của chúng ta khi thường xuyên giả vờ ốm (nhưng thường không thành công) để được ở nhà. Thiếu nhận thức về những vấn đề cơ bản này đã khiến chúng ta có những hành động tâm lý sai lầm. Từ quan điểm giáo dục, trẻ 6 tuổi đang bắt đầu học đọc nhưng còn xa mới đúng với sở thích, kiến thức và năng lực của trẻ. Những gì nên xảy ra với trẻ trong giai đoạn từ 6-7 tuổi (giả sử những giai đoạn trước đây đều được nuôi dạy đúng đắn) này là: trẻ nên tận hưởng tất cả những gì được giới thiệu cho giai đoạn từ 6-l4 tuổi. Kết quả của quá trình này có thể là minh chứng rõ ràng; trừ khi chúng ta sẵn sàng chấp nhận giả thiết phớt lờ là tốt còn kiến thức sẽ học sau; và chơi đồ chơi sẽ giúp trẻ vui, trong khi học về ngôn ngữ và thế giới này thì không. Cũng sẽ là ngu ngốc khi nghĩ rằng cho bộ não nhiều thông tin thì sẽ dùng hết, còn nếu để rỗng không thì sẽ bảo tồn được. Người nào có càng nhiều thông tin trong não thì sẽ dễ dàng trở thành thiên tài, trong khi một người với bộ não trống rỗng thì sẽ bị gọi là đồ ngốc. Khi cuộc Cách mạng Mềm này bắt đầu, chúng tôi chỉ có thể nghĩ tới những trẻ được hưởng cơ hội này sẽ bị ảnh hướng như thế nào. Tuy nhiên, cuốn sách Những đứa trẻ dẫn đầu (Kids Who Suất Ahead, Stay Ahead) của thạc sĩ Neil Harvey xuất bản năm 1994 đã cho biết những gì xảy ra về mặt thể chất, trí tuệ và xã hội với l34 trẻ học sớm. Trong bốn năm đầu đời, trẻ được học đọc, học toán, các hoạt động thể chất và rất nhiều kiến thức tổng hợp khác. Khi đến trường, gần 35% số trẻ này được học lớp chọn. Chúng cùng nhiều trẻ được học sớm khác trội hơn trong mọi môn học. Lượng kiến thức chúng ta ngăn trẻ tiếp thu chính là thước đo sự thiếu nhiệt huyết đối với niềm đam mê học của trẻ. Trẻ đã học rất thành công bất chấp sự ngăn cản của chúng ta là biểu hiện của một tài năng tiếp nhận thông tin. Trẻ sơ sinh gần như không khác gì bản sao của một chiếc máy tính chưa được lập trình: Một chiếc máy tính có khả năng nhận khối lượng lớn thông tin mà không cần cố gắng. Và trẻ nhỏ cũng vậy. Một chiếc máy tính có thể phân loại và sắp xếp thông tin. Một đứa trẻ cũng vậy. Một chiếc máy tính có thể cho thông tin vào bộ nhớ tạm thời hay cố định. 40 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] Và một đứa trẻ cũng vậy. Bạn không thể mong chờ chiếc máy tính cho bạn câu trả lời chính xác đến khi bạn cung cấp đủ thông tin về Câu hỏi. Chiếc máy tính không thể làm được. Và một đứa trẻ cũng không. Khi bạn đưa đủ những thông tin cơ bản và hữu ích cho máy tính thì bạn sẽ nhận được câu trả lời chính xác và thậm chí là cả những đánh giá. Bạn cũng sẽ nhận được như vậy từ một đứa trẻ. Máy tính sẽ chấp nhận mọi thông tin bạn cài vào bất kể nó có đúng hay không. Một đứa trẻ cũng vậy. Chiếc máy tính sẽ không loại bỏ bất kì thông tin nào được đưa vào với dạng đúng. Một đứa trẻ cũng thế. Đến đây thì sự tương đương đã hết. Nếu những thông tin sai được đưa vào máy tính nó có thể bị mất hết dữ liệu và phải lập trình lại. Điều này không đúng với một đứa trẻ. Những thông tin được đưa vào não trẻ để lưu giữ lâu dài có hai điểm hạn chế. Thứ nhất là nếu bạn đưa thông tin sai trong sáu năm đầu đời thì sẽ rất khó để xóa nó. Thứ hai là sau sáu năm này, trẻ sẽ tiếp nhận thông tin rất chậm và khó khăn hơn nhiều. Câu chuyện sau đây kể về một cô gái đẹp nhưng ít học và cưới được một người đàn ông giàu có. Anh chồng đã rất vất vả để dạy cô vợ học và gần như mọi thứ đã thành công. Nhưng một vài năm sau, trong khi đang xuống xe theo phong cách của một quí bà thì cái chuỗi vòng pha lê lại bị vướng vào xe và rơi vỡ mất, những hạt pha lê lăn ra khấp nơi. "Khỉ thật", cô nàng hét lên "Chuỗi hạt của tôi!" Có thể những gì tiếp thu trong sáu năm đầu đời đã được thể hiện ở đây. Vì thế chúng ta nên cố gắng để chắc chắn rằng mọi điều trẻ tiếp thu là tốt và chính xác. Có người đã từng nói rằng: "Hãy giao cho tôi một đứa bé và trong sáu năm đầu đời bạn có thể dạy bé những gì bạn sẽ dạy sau này." Không gì có thể chính xác hơn. Mọi người đều biết rằng trẻ em ghi nhớ các sự việc rất dễ, ngay cả khi chúng không thực sự hiểu đi chăng nữa. Mới đây chúng tôi đã thấy một cậu bé 6 tuổi ngồi đọc sách trong bếp khi mà chó đang sủa ầm ĩ, radio cũng đang bật còn mọi người trong nhà thì đang tranh luận gay gắt. Cậu bé đang học thuộc lòng bài thơ để trình bày ở trường vào hôm sau và cậu đã thành công. Nếu yêu cầu người lớn học thuộc bài thơ để trình bày trên lớp thì nhiều khả năng họ sẽ hoảng sợ. Giả sử họ học được và sáu tháng sau được yêu cầu trình bày lại. Thật lạ là họ không thể làm được những đứa trẻ thì hoàn toàn có thể. Khi trẻ có thể tiếp thu và lưu giữ toàn bộ thông tin trong giai đoạn rất quan trọng này thì khả năng học ngôn ngữ sẽ rất tuyệt vời, và không quan trọng đó là ngôn ngữ nói mà trẻ học theo âm thanh hay ngôn ngữ viết mà trẻ học bằng hình. Như đã nói, mỗi ngày trôi qua, khả năng tiếp nhận thông tin của trẻ giảm xuống, nhưng khả năng đánh giá lại tăng lên. Cuối cùng thì đường cong đi xuống và đường cong đi lên này sẽ gặp nhau. Trước khi hai đường cong gặp nhau, có thể trẻ sẽ giỏi hơn người lớn ở một số mặt. Và khả năng học ngôn ngữ chính là một trong những điểm trội hơn ấy. Hãy chú ý đến yếu tố dẫn tới khả năng học ngôn ngữ này. 42 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] Khi còn trẻ, tôi đã dành bốn năm để học tiếng Pháp và cũng đã từng đi Pháp hai lần, nhưng nói thật thì tôi chẳng nói được câu nào. Vậy mà một đứa bé Pháp lại có thể học tiếng Pháp rất tốt, sử dụng thành thạo các qui tắc ngữ pháp cơ bản trước khi lên 6 tuổi. Có thể cũng hơi buồn khi bạn nghĩ về điều đó. Đầu tiên mọi người có thể nghi ngờ rằng sự khác biệt không phải là giữa trẻ con với người lớn mà sự thật là đứa trẻ đó sống ở Pháp trong khi người lớn thì không, và vì thế nó sẽ tiếp xúc với tiếng Pháp mọi lúc mọi nơi. Hãy cùng xem liệu có sự khác biệt nào không hay sự khác biệt nằm trong khả năng vô hạn của trẻ và sự khó khăn của người lớn khi học ngôn ngữ. Có hàng chục nghìn sĩ quan quân đội Mỹ đã đăng kí ra nước ngoài và nhiều người trong số đó cố gắng học một thứ tiếng mới. Hãy lấy trường hợp thiếu tá John Smith làm ví dụ. Thiếu tá Smith mới 30 tuổi và hoàn toàn khỏe mạnh. Anh cũng đã tốt nghiệp đại học và có chỉ số IQ trên mức trung bình 15 điểm. Smith đăng kí tới Đức Smith được gửi tới một trường tiếng Đức và học ba buổi tối một tuần. Trường ngôn ngữ quân đội là nơi rất tốt cho người lớn, được giảng dạy bằng hệ thống ngôn ngữ nói và có rất nhiều giáo viên giỏi. Thiếu tá Smith học tiếng Đức rất chăm chỉ, vì nó rất quan trọng với công việc của anh và anh thường xuyên tiếp xúc, nói chuyện với những người nói tiếng Đức và tiếng Anh hàng ngày. Một năm sau, khi Smith dẫn cậu con trai 5 tuổi đi mua sắm, cậu bé có thể nói chuyện khá tốt với người Đức trong khi Smith thì không. Vì sao vậy? Smith thì được những giáo viên người Đọc giỏi nhất dạy tiếng nhưng vẫn không nói được, trong khi cậu con trai 8 tuổi thì lại có thể! Vậy ai đã dạy cậu bé. Thực ra chẳng có ai cả. Chỉ đơn giản là vì cậu bé ở nhà cả ngày với một cô giúp việc nói tiếng Đức. Vậy ai đã dạy cô giúp việc? Cũng chẳng ai cả. Người bố được dạy tiếng nhưng lại không nói được. Còn cậu con không được dạy thì lại nói được. Để người đọc không tin rằng sự khác biệt là do môi trường chứ không phải do khả năng của trẻ em và người lớn, hãy cùng chúng tôi xem tiếp trường hợp bà Smith cũng cùng sống ở nhà với cô giúp việc như cậu con trai. Bà Smith cũng không nói được gì nhiều hơn Smith và còn kém cậu con trai rất nhiều. Nếu sự nhầm lẫn của chúng ta về khả năng học ngoại ngữ khi còn bé không quá đáng buồn và lãng phí thì có thể sẽ rất hài hước. Nếu nhà Smith mang theo mấy đứa con tới Đức, thì sự thành thạo ngôn ngữ sẽ tỷ lệ nghịch với độ tuổi của các thành viên. Nếu có một đứa bé 3 tuổi thì nó sẽ học tiếng Đức giỏi nhất. Đứa 5 tuổi cũng học được nhiều nhưng không nhiều bằng đứa 3 tuổi. Tương tự, đứa 10 tuổi cũng học được nhiều nhưng kém đứa 5 tuổi. Còn đứa 15 tuổi thì sẽ học được ít và rất chóng quên. Đáng buồn là ông bà Smith lại là hai người gần như không học được gì. Những trường hợp như ví dụ trên đây gần như xảy ra trên toàn thế giới. Chúng ta đã biết đến nhiều trẻ học tiếng Pháp, Tây Ban Nha, Nhật hay Iran trong những hoàn cảnh tương tự như trên. Điểm cần nhấn mạnh ở đây không phải là khả năng học ngoại ngữ bẩm sinh của trẻ mà là người lớn không có khả năng học ngoại ngữ Nhiều người đã lo lắng khi nghĩ đến hàng triệu đô la bị tiêu tốn mỗi năm để các trường phổ thông và đại học tại Mỹ dạy ngoại ngữ cho người lớn - đối tượng gần như không có khả năng học. 44 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] Hãy xem liệu họ có thực sự học ngoại ngữ ở trường phổ thông hay đại học. Nếu sau bốn năm học tại trường của Pháp, một người có thể vào nhà hàng và gọi phục vụ mang cho một ly nước, nhưng phải cố gắng để giải thích mình muốn một ly nước đá. Điều này đã đủ thuyết phục rằng bốn năm học tiếng Pháp là không đủ. Nhưng khoảng thời gian đó lại là thừa với một đứa trẻ. Không có vấn đề gì ngoài sự thật rằng trẻ nhỏ với vóc dáng kém xa người lớn lại giỏi hơn người lớn ở nhiều mặt và một trong những mặt đó là khả năng tiếp nhận ngôn ngữ đáng kinh ngạc. Chúng ta đã chấp nhận điều này mà không nghĩ rằng đây thực sự là khả năng kì diệu. Một đứa trẻ bình thường gần như có thể học hết một ngôn ngữ khi ở độ tuổi từ 1-5. Trẻ học bằng đúng chất giọng của quốc gia mình, của quê hương, thành phố và gia đình mình. Trẻ học không phải nỗ lực mà lại rất chính xác. Ai đã có thể làm được điều này? Nhưng mọi chuyện không dừng ở đó. Đứa trẻ nào được lớn lên trong môi trường song ngữ sẽ học cả hai thứ tiếng trước khi lên 6 tuổi. Hơn nữa, trẻ sẽ học ngoại ngữ đó bằng chất giọng chính xác ở nơi bố mẹ đã từng học tiếng đó. Một đứa trẻ được sinh ra trong nhà có ba ngôn ngữ thì sẽ nói được ba thứ tiếng trước khi lên 6 tuổi, và cũng tương tự như vậy với các ngôn ngữ khác. Cách đây nhiều năm, khi còn Ở Brazil, chúng tôi đã gặp một cậu bé 9 tuổi cũng không thông minh lắm nhưng có thể hiểu, đọc và viết được chín thứ tiếng một cách trôi chảy. Avi Roxannes sinh ra ở Cairo (nơi nói tiếng Pháp, Ả Rập và tiếng Anh) và ông cậu bé (là người Thổ Nhĩ Kỳ) cũng sống cùng gia đình cậu. Khi được 4 tuổi gia đình cậu chuyển đến sống ở Israel và bà nội (là người Tây Ban Nha) cũng đến sống cùng với gia đình. Ở Israel, cậu bé học thêm được ba thứ tiếng khác (Hebrew, Đức và tiếng Yiddish) và sau đó khi lên 6 gia đình cậu lại chuyển đến sống ở Brazil (nói tiếng Bồ Đào Nha). Bố mẹ Avi cũng cố gắng nói chuyện bằng nhiều thứ tiếng với cậu, họ rất khéo léo chuyển cuộc đối thoại bằng cả chín thứ tiếng (từng người một hoặc là cả hai). Bố mẹ Avi giỏi ngoại ngữ hơn so với nhiều người lớn khác, họ học năm thứ tiếng khi còn bé nhưng tất nhiên về tiếng Anh và Bồ Đào Nha thì họ còn kém xa Avi vì họ học hai thứ tiếng này khi đã lớn. Chúng tôi cũng đã nhắc đến nhiều trường hợp được nhiều tài liệu ghi lại về những gì đã xảy ra khi bố mẹ dạy con cái những điều từ trước đến nay vẫn được coi là đặc biệt ngay từ khi chúng còn bé. Một trong những trường hợp ấy là Winifred và mẹ là Winifred Sackville Stoner đã viết cuốn sách Giáo dục từ nhiên (Natural Education) được xuất bản năm 1914. Bà mẹ này đã khuyến khích và tạo điều kiện cho con mình được học ngay từ khi sinh ra. Chúng ta sẽ thảo luận về kết quả của quá trình này sau. Còn bây giờ hãy xem bà Stoner đã nói vì về khả năng của con gái mình với ngôn ngữ khi mới 5 tuổi: "Ngay khi Winifred thể hiện mong muốn của mình tôi đã dạy cháu tiếng Tây Ban Nha thông qua các đoạn hội thoại và phương pháp tương tự khi tôi dạy tiếng Anh. Tôi chọn tiếng Tây Ban Nha là ngôn ngữ thứ hai vì đây là thứ tiếng đơn giản nhất trong các ngôn ngữ châu âu. Khi lên 5 tuổi, Winifred đã có thể thể hiện suy nghĩ của mình bằng tám thứ tiếng và tôi tin rằng con số này có thể tăng lên gấp đôi nếu tôi tiếp tục cho cháu chơi trò cấu tạo từ bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Nhưng giờ đây tôi nghĩ tiếng Esperanto có thể sẽ trở thành 46 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] phương tiện giao tiếp quốc tế, và ngoài việc phát triển khả năng ngôn ngữ thì kiến thức về nhiều thứ tiếng có thể giúp ích cho con gái tôi." Về sau bà Stoner còn nói rằng: "Phương pháp dạy ngoại ngữ thường sử dụng trong các trường phổ thông thông qua các qui luật ngữ pháp đã chứng minh là không hiệu quả, khi mục đích của việc học ngoại ngữ là học sinh phải thể hiện được suy nghĩ của mình bằng thứ tiếng đó " . Bạn hãy nhớ rằng trẻ có khả năng đặc biệt để học ngôn ngữ nói nhưng thực ra quá trình học ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết là hoàn toàn như nhau. Vậy tiếp theo không phải là trẻ nhỏ cũng có khả năng đặc biệt để đọc một ngôn ngữ nào đó? Thực tế là nếu cho trẻ cơ hội trẻ cũng sẽ thể hiện khả năng tốt như vậy. Hãy cùng xem một số ví dụ sau: Khi một người hoặc một nhóm nghiên cứu tìm ra được ý tưởng nào mới thì phải thực hiện một số công việc trước khi phổ biến rộng rãi ý tướng và tìm kiếm mới ấy. Đầu tiên tìm kiếm này phải được thử nghiệm trong thực tế để xem mức hiệu quả của nó đến đâu. Có thể tốt, có thể xấu hoặc không vấn đề gì Tiếp theo, dù ý tưởng ấy có mới đến đâu thì cũng rất có khả năng đã có người nghĩ ra và sử dụng từ trước và có thể họ đã báo cáo kết quả nghiên cứu ở đâu đó. Đây không chỉ là đặc quyền mà thực ra là bổn phận của những người khi tiến hành nghiên cứu là phải tìm hiểu các tài liệu đã có để xem ai nói về vấn đề đó hay chưa. Điều này thực sự rất cần thiết ngay cả khi đó có vẻ là ý tưởng hoàn toàn mới. Trong những năm từ 1959-l962, chúng tôi nhận thấy có nhiều người cả ở nước Mỹ và trên thế giới đã nghiên cứu về việc đọc của trẻ em. Chúng tôi đều biết họ đã nói gì và làm gì. Trong khi chúng tôi đồng ý với những gì họ đã làm và chắc chắn rằng đó là việc tốt thì chúng tôi vẫn tin rằng nền tảng của quá trình học là thần kinh chứ không phải tâm lý, cảm xúc hay giáo dục. Khi bắt đầu nghiên cứu, có bốn vấn đề chúng tôi rất ấn tượng: 1. Việc dạy trẻ con học đọc không phải là vấn đề mới mà đã có từ nhiều thế kỉ trước đó. 2. Thông thường mọi người đều làm rất giống nhau dù lí do và triết lí khác nhau. 3. Những người dạy trẻ đọc sử dụng hết tất cả các hệ thống dù kĩ thuật có khác nhau nhưng vẫn có nhiều điểm chung. 4. Điều quan trọng nhất là, trong tất ca các trường hợp dạy trẻ đọc, những ai cố gắng thì đều thành công dù phương pháp có khác nhau Nhiều trường hợp đã được nghiên cứu và ghi chép lại cẩn thận. Chỉ có một số ít trường hợp thể hiện rõ ràng hơn Winifred đã được nhắc đến ở trên. Bà Stoner cũng đã kết luận giống như chúng tôi khi ở viện nghiên cứu dù bà không tiếp cận từ quan điểm thần kinh như chúng tôi. Trong Giáo dục tự nhiên, bà Stoner đã viết: "Khi cháu được 6 tháng tuổi, tôi đã đặt một tấm bìa các tông cao l,2m màu trắng quanh bức tường ở phòng cháu. Một mặt của bức tường tôi dán các chữ cái được cắt ra từ giấy bóng màu đỏ. Còn mặt kia là những từ đơn giản được ghép từ những chữ cái ấy và được xếp theo hàng như: mèo, chó, lợn, mũ... Bạn sẽ thấy rằng ở đây chỉ có danh từ. "Sau khi Winifred học hết các chữ cái tôi bắt đầu dạy các từ trên tường bằng cách đánh vần và tạo nhịp điệu cho những từ ấy. . . Thông qua những trò chơi được tạo từ như thế này, trí nhớ của Winifred sẽ có ấn tượng với những gì tôi đọc và cháu đã đọc được khi được 16 tháng tuổi, mà không cần phải luyện các 48 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] bài tập đọc. Bốn người bạn của tôi đã thử phương pháp này và cũng đã thành công vì trẻ có thể đọc được những văn bản đơn giản bằng tiếng Anh trước khi lên 3 tuổi". Câu chuyện này cũng chưa phải là trường hợp đặc biệt. Năm 1918, một trường hợp khác cũng đã được báo Cáo. Đứa bé có tên là Martha (tên thường gọi ở nhà là Millie), bố là luật sư và đã dạy cho cô bé đọc từ khi mới được 19 tháng tuổi. Martha là hàng xóm của Lewis Terman, một nhà giáo dục. Terman cũng rất ngạc nhiên về thành công của bố Martha trong việc dạy cô con gái đọc. Ông đã yêu cầu cha cô bé viết một bản kế hoạch chi tiết những gì đã làm. Về sau bản kế hoạch này đã được xuất bản do Terman giới thiệu trong cuốn Nhật ký tâm lý ứng dụng (Journal of Applied Psychology) tập 2 (năm l918). Thật trùng hợp là bố Martha cũng dùng những khối chữ cái màu đỏ để tạo từ như mẹ Winifred. Khi nhắc đến Martha trong Bản Nghiên cứu về Gen và khả năng của những đứa trẻ xuất chúng (Genetic Studies of Genius and Mental and Physical Traits of a Thousand Gifted Children) (năm l925), Terman đã viết: "Cô bé này đã đạt kỉ lục thế giới về khả năng biết đọc sớm. Khi mới được 26 tháng tuổi, lượng từ vựng của cô bé đã lên tới hơn 700 từ, và từ khi được 21 tháng cô bé đã đọc và hiểu được những câu đơn giản nhờ biết kết nối tư duy chứ không phải tách ra từng từ. Ở tuổi này, cô bé cũng đã phân biệt và gọi tên được các màu cơ bản. (đến khi được 23 tháng tuổi, cô bé bất đầu thế hiện cảm giác thích thú khi đọc. Đến 24 tháng, cô bé đã đọc được hơn 200 từ, và đã tăng lên đến 700 từ trong hai tháng tiếp theo". "Khi được 25 tháng, cô bé đã có thể đọc trôi chảy và đọc cho chúng tôi nghe những câu từ trước đây cô bé chưa gặp bao giờ. Ở độ tuổi này, khả năng đọc của cô bé đã tương đương với một trẻ 7 tuổi đã đi học một năm". Viện Nghiên cứu Tiềm năng Con người ở Philadelphia đã phát hiện ra rằng có thể dạy trẻ bị tổn thương não đọc tốt. Điều này không chứng minh rằng những trẻ như thế giỏi hơn những trẻ bình thường; chỉ đơn giản là trẻ con đều có thể học đọc. Và người lớn chúng ta cũng nên cho phép trẻ làm như vậy vì lí do trước hết là trẻ thích học. CHƯƠNG 4 50 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] Trẻ nhỏ đang học đọc Nghe có vẻ buồn cười khi nói rằng một Đứa trẻ 3 tuổi có thể học đọc nhưng khi được vào siêu thị, trẻ có thể đọc tên của rất nhiều mặt hàng. - NHỮNG NGƯỜI CÓ CON 3 TUỔI Tháng Mười một năm l962, trong một cuộc hội thảo về sự phát triển thần kinh ở trẻ nhỏ với sự tham gia của các nhà giáo dục, bác sĩ và đông đảo những người quan tâm, một nhà giáo dục đã kể lại câu chuyện sau đây. Ông đã làm về giáo dục được 30 năm. Hai tuần trước khi diễn ra cuộc hội thảo, một giáo viên mầm non đã kể rằng khi cô chuẩn bị đọc sách cho trẻ lớp 5 tuổi thì một trẻ đã xung phong lên đọc. Cô giáo nói rằng đây là cuốn sách mới và các em chưa bao giờ đọc nhưng cậu bé kia vẫn nài nỉ và nói rằng mình có thể đọc được. Cô giáo nghĩ rằng có lẽ cách tốt nhất để khuyên can cậu bé là cứ để cho cậu đọc thử. Và cậu bé đã làm được. Cậu đọc to, rõ ràng và trôi chảy hết cả cuốn sách cho cả lớp nghe. Quan sát viên cho biết trong suốt 32 năm làm trong ngành giáo dục, thỉnh thoảng ông vẫn nghe nói đến những trường hợp trẻ 5 tuổi có thể đọc sách, nhưng chưa bao giờ ông được tận mắt chứng kiến. Tuy vậy, ông vẫn tin rằng trong ba năm trở lại đây, các nhà trẻ đều có ít nhất một trẻ có thể đọc được sách. 32 năm trôi qua nhưng không có trẻ 5 tuổi nào biết đọc nhưng chỉ ba năm trở lại đây mỗi trường lại có ít nhất một trẻ biết đọc! Nhà giáo dục đề cập đến việc ông đã điều tra từng trường hợp để xem ai đã dạy trẻ đọc. "Các bạn có biết ai đã dạy những trẻ như thế đọc không?" ông hỏi các chuyên gia phát triển trẻ em - những người chủ từ cuộc hội thảo. "Có", , chuyên gia nói: "Tôi nghĩ là mình biết. Không có ai dạy chúng cả." Quan sát viên đồng ý rằng đó cũng là một trường hợp. Trong trường hợp không ai dạy trẻ đọc thì cũng đồng nghĩa với việc không ai dạy trẻ hiểu ngôn ngữ nói. Hiểu theo nghĩa rộng hơn thì người lớn chỉ là nhân tố thêm vào môi trường của trẻ để dạy trẻ đọc, cũng như dạy trẻ hiểu ngôn ngữ nói. Bằng việc xem quảng cáo truyền hình với những từ được viết rất to và phát âm rõ ràng, trẻ đã bắt đầu học đọc một cách vô thức. Từ việc hỏi người lớn một số câu mà người lớn vô tình không nhận ra, khả năng đọc của trẻ sẽ tăng lên. Bằng cách đọc truyện cho con nghe, bố mẹ đã giúp con gia tăng vốn từ vựng. Còn trong những trường hợp bố mẹ biết điều gì đang xảy ra thì họ sẵn sàng giúp con học. Nói chung họ đều làm vậy bất chấp những những quan niệm sai lầm về khó khăn xảy ra với trẻ nếu họ giúp trẻ học đọc trước khi đến tuổi đi học. Dù không công bố gì về công trình nghiên cứu cho tới giữa năm l96~ thì vẫn có hàng trăm giáo sư và sinh viên cao học đến thăm viện nghiên cứu, những người từ trước năm l963 đã thấy được niềm đam mê của chúng tôi trong việc dạy trẻ con học đọc. Ngoài ra còn có hơn 400 ông bố bà mẹ có con bị tổn thương não cũng đang dạy con học ở nhiều giai đoạn khác nhau theo hướng dẫn của chúng tôi. Có hơn 100 trẻ từ 1-5 tuổi bị tổn thương não, còn trẻ từ 6 tuổi trở lên cũng là hơn 100. Thông tin của chúng tôi bị rò rỉ ra ngoài là điều không thể tránh được. Đầu năm 1963 chúng tôi nhận được hàng trăm lá thư. Nhưng đến giữa năm l963 theo một bài báo trong tạp chí quốc gia thì con số này đã lên tới hàng nghìn. Các bà mẹ ở Mỹ và từ khắp nơi trên thế giới đã viết thư cho chúng tôi. Chúng tôi rất vui mừng và hài lòng khi biết rằng rất nhiều ông bố, bà mẹ đang dạy những đứa con mới chỉ 2 hoặc 3 tuổi của mình học đọc. 52 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] Nhiều người còn dạy sớm hơn. Nhiều trẻ giờ đã học đại học hoặc tốt nghiệp. Những bức thư này chính là minh chứng sống động về khả năng đọc của trẻ nhỏ. Đây là một số đoạn trích từ các bức thư mà chúng tôi đã nhận được: "...Tôi nghĩ có thể ông sẽ rất vui khi biết rằng tôi đã dạy con tôi đọc từ 17 tháng trước. Tôi không làm theo hệ thống và thực tế cũng không biết rằng thời điểm đó là hơi khác thường. Nó xuất phát đơn giản từ sở thích đọc sách của tôi, nên tôi cũng đọc cho con nghe từ khi còn rất bé và sau đó tôi bị ốm mất vài tháng. Chúng tôi có trò chơi với các tấm bìa ghi những chữ cái đơn giản cao khoảng 5 -6 cm. Con gái tôi ngay lập tức bị những chữ ấy thu hút và tìm kiếm trong cuốn sách nhỏ của chúng tôi. Khi chưa đến tuổi mẫu giáo, con tôi đã có thể đọc báo về các vụ cháy khiến nó rất sợ và đó chính là những cuốn sách vỡ lòng đầu tiên. Giờ đây, con tôi đã là sinh viên đại học, nó rất thành công về mặt xã hội và thể thao cũng như nhiều kĩ năng khác. Đó chính là những gì sẽ xảy ra khi nó có thể đọc trước khi được 3 tuổi... ...Trường hợp của con gái tôi đã chứng minh điều này. Bây giờ cháu đã 15 tuổi học lớp 11 và sắp trở thành sinh viên. ...Con gái tôi rất tuyệt vời, các bạn và các thầy cô giáo đều yêu quý nó... Chồng tôi là thương binh...Cả chồng và tôi đều không được học hành nhiều để có thể tìm được công việc tốt. Anh ấy mới học đến lớp năm còn tôi học đến lớp tám. Chúng tôi kiếm sống bằng nghề bán báo dạo...Chúng tôi đã mua một cái xe mooc dài hơn 5m và con gái tôi đã được nuôi dạy trong cái xe mooc ấy. Khi được 10 tháng tuổi tôi đã mua cho con cuốn sách đầu tiên. Đó thực sự chỉ là cuốn sách vỡ lòng với các đồ vật và chữ cái đầu tiên. Trong sáu tháng con bé có thể gọi tên các đồ vật. Lên 2 tuổi tôi mua cho cháu một cuốn sách vỡ lòng khác (và nhiều quyển khác nữa). Chúng tôi thường phải đi khắp nơi và đó chính là khoảng thời gian tuyệt vời để dạy cháu. Mỗi khi dừng lại ở một thành phố khác, nó lại cần một thứ gì đó để đọc. Nếu tôi bán hàng thì chồng tôi sẽ phải trông nó. Con bé luôn muốn biết cách phát âm của những từ khác nhau và chồng tôi đã dạy nó. Chúng tôi không bao giờ muốn dạy con bảng chữ cái, khi nào đi học nó sẽ học sau. Đến năm 6 tuổi con bé đi học lớp một mà không gặp phải khó khăn gì. Và chúng tôi vẫn sống trong chiếc xe mooc. Chúng tôi có cả một thư viện trong chiếc xe này. Tôi biết đây là bức thư dài và nghe có vẻ quan trọng nhưng thực ra thì không phải vậy. Tôi biết rằng nếu bố mẹ dành thời gian và cho con cơ hội thì con họ cũng sẽ làm được như con gái chúng tôi. Bạn không thể xốc trẻ dậy, đưa đến trường rồi mong trẻ sẽ học nhanh chóng mà không có nền tảng từ trước ...Nếu ông nghĩ rằng bức thư này có thể giúp ích cho các ông bố bà mẹ khác thì ông có thể in nó. Điều tôi muốn nói ở đây là tôi biết rằng "Ai cũng có thể dạy con đọc !" " Thưa các vị : ...Tôi muốn nói thêm rằng cả một người không chuyên nghiệp như tôi cũng có thể làm được điều này. . . cháu lớn nhà tôi đã có thể học bảng chữ cái trước khi được 18 tháng tuổi. . . ...khi được 3 tuổi cháu toàn hỏi các biển hiệu có nghĩa là gì. . . và cháu có thể đọc được trước khi đi học mẫu giáo. Tôi không giúp gì nhiều ngoài việc trả lời các câu hỏi. Dù bây giờ mới học lớp Một và học viết chính tả nhưng cháu đã có thể đọc được sách, làm toán lớp Hai và là một trong những học sinh dẫn đầu lớp. Liệu có phải chỉ số IQ tăng lên nhờ việc đọc sớm hay việc đọc được sớm là do IQ cao. 54 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] ...Tôi không có nhiều thời gian để nói chuyện với cháu thứ hai, và kết quả là cháu học không khá lắm. Tôi rất ân hận vì đã không quan tâm được nhiều đến cháu và có thể đó sẽ là bất lợi trong suốt cuộc đời của cháu sau này. ...nhưng dù sao thì hai con tôi đều rất thích học và có thể đọc rất nhiều ngay từ bé khi đó mới chỉ là trò chơi với chúng. " "Thưa ngài: ...cuối cùng thì tôi cũng nhận ra sự thật rằng trẻ 2, 3 hay 4 tuổi đều có thể học đọc và muốn học đọc. Con gái tôi biết tất cả các chữ cái và có thể đọc vài từ khi mới 2 tuổi. Sau sinh nhật 3 tuổi được vài ngày, con bé đột nhiên nhận ra rằng dường như đọc một chuỗi từ liên tiếp sẽ có thể tạo thành câu. Từ lúc đó, khả năng đọc của nó tiến bộ rất nhanh chóng và đến 4 tuổi rưỡi thì con bé có thể đọc được như một học sinh lớp Hai". Còn một bác sĩ tại Phần Lan đã có những lời nhận xét như thế này: "Thưa ông: Tôi đã dạy hai trong ba đứa con của tôi học khi được hơn 4 tuổi với phương pháp hơi khác nhau một chút. Những ý kiến của ông nghe có vẻ rất thuyết phục. Từ kinh nghiệm của mình tôi thấy rằng phương pháp của ông hoàn toàn tốt hơn phương pháp của tôi, và sang năm tôi sẽ cố gắng áp dụng nó với đứa con út (giờ mới được 7 tháng tuổi). Ở Phần Lan, việc cho trẻ chưa đến tuổi đi học học đọc được coi như nói đến những thông tin về giới tính trước tuổi. Tuy nhiên khi kiểm tra 200 trẻ chưa đến tuổi đi học tôi đã thu được những kết quả sau: 10% trẻ đọc khá tốt và hơn là trẻ biết các chữ cái. Tôi nghĩ phát triển não là công việc quan trọng và thử thách nhất trong thời đại chúng ta, và theo tôi thì ông đã thực sự đi tiên phong trong lĩnh vực này. Cần phải nói rõ rằng những bà mẹ này đã dạy con đọc, hay khám phá ra khả năng đọc của con trước khi xuất bản cuốn sách này và đã được chứng thực bằng những phương pháp được đưa ra ở đây. Đó chỉ là những chữ cái đơn giản từ những bà mẹ nhận thức được rằng con cái của họ có thể học đọc, đang học đọc và nên học đọc trước tuổi đến trường. Nhiều năm qua, tiến sĩ Moore đã tiến hành nghiên cứu tại Yale để dạy trẻ em chưa đến tuổi đi học học đọc. Ông thấy rằng dạy một trẻ 3 tuổi học đọc dễ hơn trẻ 4 tuổi, trẻ 4 tuổi dễ hơn trẻ 5 tuổi và trẻ 5 tuổi dễ hơn trẻ 6 tuổi. Và tất nhiên là dễ dàng hơn rồi. Vậy thì, đã bao nhiêu lần chúng ta nghe nói rằng trẻ em không thể học đọc đến khi chúng lên 6 tuổi và cũng không nên học? Năm 1984, Maria Montessori đã trở thành sinh viên nữ đầu tiên tốt nghiệp trường y Italia. Tiến sĩ Monterssori rất quan tâm đến nhóm trẻ không được quan tâm chú ý và bị cho là "những trẻ chậm chạp". Những nhận xét như vậy là không khoa học vì có hàng trăm lí do để giải thích tại sao trẻ lại chậm phát triển. Tuy nhiên, Montessori đã mang đến cho nhóm trẻ này cả những kiến thức y học lẫn sự cảm thông và yêu thương của một người mẹ. Làm việc với những trẻ như vậy, Maria bắt đầu thấy rằng chúng có thể được đào tạo để thể hiện tốt hơn, và điều đó thực sự đúng nếu những chương trình đào tạo như thế được bất đầu từ sớm trước khi trẻ đi học. Tiến sĩ Montessori cho ông khi được hơn 1 tuổi thì những trẻ này nên được tiếp cận và dạy bảo thông qua các phương tiện truyền thông, nghe nhìn và xúc giác. Kết quả cho thấy rất khả quan khi những trẻ bị coi là chậm chạp này có thể làm tốt như những trẻ bình thường. Cuối cùng, tiến sĩ Montessori đã kết luận trẻ đang không được thể hiện đúng khả năng của mình và chúng ta nên cho trẻ cơ hội. Các trường của Montessori dành cho những trẻ khiếm khuyết và cả trẻ bình thường đã xuất hiện từ lâu ở khắp châu âu. Hiện nay có rất nhiều trường Montessori ở Mỹ dạy những trẻ chưa đến tuổi đi học thể hiện được khả năng 56 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] của mình. Trẻ được tham gia vào nhiều chương trình từ khi 3 tuổi và cuối cùng thì phần lớn trẻ đều đọc được khi lên 4 tuổi. Một năm sau khi chương trình dạy trẻ đọc được giới thiệu ở viện nghiên cứu, có 23l trẻ bị tổn thương não đã được học đọc. Trong số đó có 143 trẻ dưới 6 tuổi. Số còn lại là 6 tuổi hoặc lớn hơn và đều không biết đọc trước khi tham gia chương trình này. Như đã nói, điều này không chứng minh rằng trẻ bị tổn thương não giỏi hơn những trẻ bình thường, mà chỉ đơn giản là những trẻ bình thường không làm những gì chúng có thể. Các số liệu được trích dẫn không bao gồm hàng trăm trẻ không bị tổn thương não gặp phải khó khăn khi đọc mà là những trẻ học kém ở trường do không biết đọc. Các số liệu cũng không bao gồm cả nhóm trẻ 2 hoặc 3 tuổi có bố mẹ đang làm theo hướng dẫn dạy đọc của viện nghiên cứu. Khắp nơi trên nước Mỹ trẻ nhỏ đang học đọc mà không cần bố mẹ hướng dẫn. Cuối cùng, chúng ta cần có một vài quyết định. Quyết định đầu tiên là chúng ta có muốn cho trẻ 2, 3 tuổi học đọc không. Nếu không, thì ít nhất có hai điều chúng ta phải làm: 1. Không đọc sách, báo, các biển hiệu và tên các sản phẩm cho trẻ nghe. 2. Đảm bảo rằng trẻ không nhìn thấy các từ trên ti vi, đầu vi deo hoặc máy tính. Ngược lại, nếu không muốn rơi vào những rắc rối như vậy thì có thể chọn cách dễ dàng hơn là cứ tiếp tục để trẻ đọc. Nếu chọn cách này, chắc chắn chúng ta nên làm vài chủ đề về những gì chúng đọc. Chúng tôi tin rằng cách tốt nhất là dạy trẻ đọc ở nhà và có bố mẹ giúp đỡ hơn là xem ti vi. Cách này rất dễ và cả bố mẹ lẫn trẻ đều yêu thích. Dù trẻ có đang học đọc hay không thì cũng không phải là điều chúng ta cần tranh luận. Đó là sự thật. Vấn đề duy nhất ở đây là chúng ta sẽ làm gì với việc này. 58 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] CHƯƠNG 5 Trẻ em nên học đọc từ khi còn rất nhỏ Bước khởi đầu của một việc là cực kì quan trọng, nhất là đối với trẻ nhỏ. Đó sẽ là cơ sở để hình thành những thói quen tốt nhất. - PLATO Herbert Spencer nói rằng não của chúng ta không nên bị bỏ đói giống như dạ dày. Giáo dục cần phải được áp dụng từ khi trẻ còn nằm nôi, trong một môi trường lý tưởng. Một đứa trẻ mà ngay từ nhỏ đã được giáo dục với những lời đe dọa đòn roi và hình phạt, cùng với những nhiệm vụ chán nản, nặng nề thì thường lớn lên không thích đi học. Trong khi với những đứa trẻ mà quá trình giáo dục diễn ra tự nhiên và đúng lúc thì hầu như sẽ tiếp tục sự nghiệp học hành của mình một cách tự giác. Chúng ta đã thảo luận về việc một vài đứa trẻ được mẹ giáo dục rất tốt và sau đó phát triển rất toàn diện nhưng những trường hợp này không phải là ví dụ trong nghiên cứu chuyên ngành. Chúng ta hãy cùng xem xét kết quả trường hợp của Millie (Martha) do Lewis M. Terman đưa ra dưới đây: Khi Millie 12 tuổi 8 tháng, cô bé đã lớn hơn tầm hai tuổi so với các bạn cùng trang lứa và đang học cuối lớp Chín. Trong báo cáo, Terman viết: Học kỳ trước cô bé là học sinh duy nhất học dưới lớp Chín có tên trong bảng danh dự của 40 học sinh cấp 3 "Sau đó, vào năm học tiếp theo 1927-1928, điều đầu tiên chúng tôi hỏi giáo viên của Millie là cô bé học giỏi môn gì nhất thì câu trả lời là: Millie đọc rất hay. Khi trò chuyện với chúng tôi, Millie nói rằng: (cháu có thể đọc năm cuốn sách mỗi ngày nếu như hôm đó cháu không phải tới trường. Cô bé cũng vô tư thừa nhận rằng cô có thể đọc rất nhanh và có thể đọc xong 13 tập Markbam trong một tuần. Bố cô bé, nghi ngờ liệu có đúng là cô có thể đọc ngần ấy tập trong một tuần không và vẫn có thể đọc tiếp, đã hỏi cô bé những câu hỏi về những chi tiết mà cô bé đã đọc, cô bé có thể trả lời đầy đủ câu hỏi của cha mình đưa ra. Terman kết luận rằng không có bằng chứng nào cho thấy Millie bị ảnh hưởng xấu bởi việc cô được dạy đọc khi còn bé và có rất nhiều bằng chứng bảo vệ quan điểm rằng những năng lực vượt trội của cô bé ngày hôm nay chính là nhờ một phần của quá trình giáo dục từ nhỏ của mình. Các bài kiểm tra IQ đều đạt trung bình trên 140 điểm và trông cô bé rất sôi nổi và hoạt bát. Cô bé hầu như không gặp khó khăn gì trong việc thích ứng với xã hội ngay cả khi các bạn cùng lớp với cô lớn hơn cô hai hoặc ba tuổi. Với điểm số IQ 140, cô bé được xếp vào danh sách những người có năng lực vượt trội. Rất nhiều nghiên cứu cho thấy những nhân vật nổi trội và những thiên tài có thể đọc những tác phẩm dài ngay từ khi còn chưa tới trường. Mọi người vẫn thường thừa nhận rằng những người mà có khả năng biết đọc từ rất sớm là do họ là những người có tài năng nổi trội. Đó là một giả thuyết hoàn toàn khoa học và chúng ta vẫn luôn chấp nhận nó. Tuy nhiên, theo những trường hợp ghi lại thì các bậc phụ huynh thường quyết định dạy những thiên thần bé nhỏ của họ biết đọc trước khi chúng có thể làm một bài kiểm tra về trí thông minh, và vì thế trước khi chúng ta đưa ra một lí do nào đó để khẳng định rằng đứa trẻ đó có năng lực nổi trội, chúng ta nên nghĩ ra một vài câu hỏi mới mẻ. Liệu có đúng rằng khi những đứa trẻ được dạy đọc từ rất sớm thì sẽ có khả năng vượt trội? 60 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] Thực tế, có rất nhiều người có tài năng vượt trội, thực ra là những thiên tài, có thể biết đọc trước khi đến trường. Thực tế này đều có thể được dùng để xác nhận cho một trong hai giả thuyết trên. Tuy nhiên, có nhiều bằng chứng hơn cho giả thuyết thứ hai so với giả thuyết thứ nhất, và đó là một giả thuyết hoàn toàn mang tính khoa học. Giả thuyết rằng nhiều người có chỉ số thông minh cao biết đọc từ khi còn rất nhỏ bởi vì họ mang những gien thiên tài trong hệ gien cơ bản và giả thuyết cũng cho rằng những người đó có tài năng nổi trội là vì họ được trời phú cho những năng lực nổi trội bẩm sinh. Chúng ta sẽ không bàn cãi về thực tế mỗi người có kiểu gien khác nhau. Chúng ta cũng không đi sâu vào bàn luận những chủ đề cũ như môi trường xung quanh ảnh hưởng như thế nào đến gien vì nó không trực tiếp liên quan tới chủ đề của chúng ta trong cuốn sách này. Tất nhiên chúng ta cũng không thể làm ngơ với những bằng chứng xác nhận rằng khả năng đọc từ khi còn nhỏ sẽ có ảnh hường rất lớn đến những hoạt động cuộc đời sau này. 1. Rất nhiều đứa trẻ mà sau này trở thành thiên tài đều được dạy đọc trước khi chúng có một biểu hiện nào đó khác thường. Thực chất, một số bậc phụ huynh cũng đã có dự định trước khi con họ ra đời rằng họ sẽ khiến con họ trở nên nổi trội sau này bằng cách dạy con họ biết đọc từ khi còn rất nhỏ và họ đã làm như vậy. 2. Theo nhiều báo cáo ghi lại, một đứa trẻ được dạy đọc từ khi còn rất nhỏ thì sau đó tỏ ra có nhiều khả năng vượt trội, trong khi những đứa trẻ khác trong cùng một nhà, cùng một bố mẹ sinh ra mà không được dạy đọc từ rất sớm thì thường không thể hiện một tài năng nổi trội nào. Trong một số trường hợp, đứa trẻ được dạy học từ rất sớm thường là đứa con đầu lòng. Trong một số gia đình khác vì nhiều lý do khác nhau, đứa trẻ đầu tiên học đọc sớm lại không phải là con cả. 3. Trường hợp của Tommy Lunski (và một số trường hợp tương tự) thì lại không có bất kỳ một bằng chứng chắc chắn nào cho thấy rằng Tommy sẽ được trời phú cho gien đặc biệt. Bố mẹ của Tommy đều chỉ học xong cấp 3 và cũng không có vẻ gì là thông minh nổi trội. Anh chị em của cậu cũng chỉ là những đứa trẻ bình thường. Ngoài những đặc điểm này ra, thì có một điều cần lưu ý rằng khi cậu 2 tuổi, cậu đã bị chấn thương não nghiêm trọng và lúc đó mọi người đều nghĩ rằng cậu sẽ trong tình trạng "thiểu năng vô phương cứu chữa". Mọi thứ coi như đã an bài. Nhưng rồi cậu lại có những biểu hiện của một đứa trẻ khác thường khi có thể đọc và hiểu văn bản tốt bằng những đứa trẻ gấp đôi tuổi của mình. Liệu có hợp lý, khoa học và thỏa đáng khi chúng ta coi trường hợp cậu bé Tommy như là một đứa trẻ có "năng khiếu bẩm sinh"? Thomas Edison cho rằng để trở thành thiên tài thì chỉ có 1% là cảm hứng, còn lại 99% là nhờ mồ hôi và công sức. Chúng ta cũng đã thảo luận một vài khía cạnh chi tiết về sáu hoạt động thần kinh của riêng con người và cũng đã chỉ ra rằng trong đó có ba hoạt động là thuộc về quá trình lĩnh hội, và ba hoạt động còn lại là thuộc về nhận thức. Điều này có vẻ là trí thông minh của con người được giới hạn trong lượng thông tin mà người đó thu được từ thế giới bên ngoài thông qua các giác quan tiếp nhận. Năng lực lĩnh hội cao nhất chính là năng lực đọc. Rõ ràng là nếu tất cả ba năng lực lĩnh hội của con người bị mất đi, thì có lẽ con người sẽ trở thành một loài thực vật nào đó, chứ không còn là con người nữa. Trí thông minh của con người còn bị giới hạn bởi ba năng lực độc nhất của con người. Đó là khả năng nghe, nhìn mà đỉnh cao của nó là khả năng đọc và hiểu 62 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] ngôn ngữ nói, và một khả năng đặc biệt nữa đó là đọc ngôn ngữ bằng sự cảm nhận chứ không còn bằng mắt thường. Nếu một trong ba năng lực đó của một người cao hơn của người khác thì người đó sẽ thể hiện những năng lực đó ở mức độ tốt nhất, miễn là anh ta có mọi cơ hội để đón nhận thông tin thông qua những phương tiện đơn giản nhất. Khi con người đã đạt được năng lực nhận thức cao nhất, thì năng lực ấy sẽ chững lại. Tuy nhiên, điều đó cũng đúng theo chiều ngược lại. Tức là khi ba năng lực nhận thức đó của một người còn thấp, thì người đó sẽ thể hiện chúng ở mức độ thấp. Chúng ta hãy thử tưởng tượng đến tình huống khi mà loài người bị mất khả năng đọc và nghe, thì có lẽ chúng ta cần phải dạy cho thế hệ sau những cách giao tiếp khác. Rõ ràng chúng ta có thể chọn xúc giác để giao tiếp như cô giáo đầu tiên của Helen Keller đã từng làm, vì học sinh của cô ấy vừa bị mù vừa bị điếc, không thể nói, đọc, viết Nếu khả năng của Helen Keller trong việc tiếp nhận ngôn ngữ bằng xúc giác kém, thì có lẽ cô đã chỉ tồn tại ở cấp độ động vật. Hoặc nếu như xúc giác của cô không tồn tại, thì giống như thị giác và thính giác, có lẽ cô chỉ tồn tại ở cấp thực vật. Khi những năng lực đó của con người tăng lên thì khả năng thể hiện những năng lực đó cũng lớn dần lên. Tất nhiên với những đứa trẻ bị chấn thương não mà lại có khả năng đọc từ khi còn rất nhỏ thì tức là chúng có khả năng cao hơn so với những đứa trẻ cũng bị chấn thương nhưng lại không có năng lực nổi trội kia. Và với những đứa trẻ bình thường mà có những năng lực vượt trội như vậy thì cũng luôn phát triển ở mức độ cao hơn các bạn cùng trang lứa mà không có những năng lực đó. Đúng là có một vài người não bị chấn thương cũng có thể hiểu ngôn ngữ ở mức độ hạn chế, nhưng không có thần đồng nào mà lại không thể hiểu ngôn ngữ. Ngôn ngữ là công cụ có sẵn quan trọng nhất của con người. Con người có thể không có những suy nghĩ tinh tế bằng thứ ngôn ngữ mà họ có. Nếu anh ta cần có thêm từ, thì anh ta phải tạo ra nó và dùng nó như một công cụ để tư duy và trao đổi những tư duy mới đó. Hầu hết các bài kiểm tra chỉ số thông minh cho con người phụ thuộc vào khả năng tiếp nhận thông tin qua kênh nói và viết. Nếu khả năng đọc bị giảm xuống hoặc không có thì rõ ràng là khả năng biểu hiện trí thông minh cũng đã bị giảm đi đáng kể. Rõ ràng là nếu con người thiếu khả năng đọc, thiếu tài liệu đọc kết quả là thiếu sự giáo dục thì tất sẽ dẫn đến một hậu quả lớn hơn là cơ hội lĩnh hội tri thức cũng bị giảm đi. Điều này cũng làm cho trí thông minh giảm đi. Khả năng về ngôn ngữ cũng là một công cụ thiết yếu. Do đó, năng lực biểu hiện trí thông minh cũng liên quan tới năng lực ngôn ngữ mà nó đang xử lý. Về mặt tự nhiên, đòi hỏi về năng lực ngôn ngừ đối với một đứa trẻ trong bài kiểm tra chỉ số thông minh ngày càng cao hơn. Vì thế nếu năng lực ngôn ngữ của đứa trẻ cao hơn so với các bạn cùng lứa tuổi thì nó sẽ được xem như là thông minh hơn. Tommy Lunski bị xem là đần độn từ khi lên 2 tuổi, đặc biệt là khi cậu bé không biết nói (biểu hiện trí thông minh của cậu), nhưng đến khi cậu 5 tuổi thì cậu lại được xem như là một đứa bé có năng lực vượt trội vì cậu có thể đọc rất giỏi. Có một điều rất rõ là khả năng biết đọc khi còn rất nhỏ có liên quan đến việc đo chỉ số thông minh và việc thể hiện trí thông minh cũng chính là một bài kiểm tra hữu dụng về chỉ số thông minh, tức là dựa vào sự thể hiện đó mà chúng ta có thể đánh giá chỉ số thông minh của trẻ. Đứa trẻ càng sớm biết đọc thì nó càng thích đọc và đọc tốt hơn. 64 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] Dưới đây là một vài lí do để chúng ta nên cho trẻ học đọc từ khi còn nhỏ: 1. Tính hiếu động của trẻ 2-3 tuổi thực chất là kết quả của những mong muốn tìm hiểu, khám phá. Nếu chúng có cơ hội để thỏa mãn những mong muốn ấy, chúng sẽ đỡ hiếu động hơn, biết tránh những thứ có hại cho bản thân và sẽ tìm hiểu về thế giới xung quanh tốt hơn trong quá trình vận động, tìm hiểu về thế giới vật chất và về chính bản thân chúng. 2. Năng lực lĩnh hội của một đứa trẻ khi 2 tuổi và 3 tuổi không bao giờ ngang bằng nhau. 3. Dạy trẻ học đọc khi còn nhỏ thì sẽ đơn giản hơn rất nhiều so với sau này. 4. Những đứa trẻ mà được dạy đọc từ khi còn nhỏ sẽ han tìm hiểu, học hỏi kiến thức hơn so với những đứa trẻ ngay từ bé đã chán nản với việc đọc. 5. Trê học đọc ngay tử khi còn nhỏ thường có xu hướng lĩnh hội tốt hơn các bạn khác. Ngồi nghe một đứa trẻ 3 tuổi đọc từng câu thật diễn cảm sẽ là tuyệt vời hơn là nghe một đứa trẻ 7 tuổi đọc rời rạc từng từ một. 6. Những đứa trẻ học đọc từ khi còn nhỏ thường có xu hướng đọc và hiểu nhanh hơn các bạn khác. Điều này là do khi trẻ đọc, chúng thường không có cảm giác như đang học một môn bắt buộc đầy nhàm chán, sợ hãi, mà chúng thường coi đó như là một thứ hấp dẫn trong thế giới ngọt ngào hơn với bao điều thú vị cần tìm hiểu. Và như thế chúng sẽ không bao giờ thích trì hoãn việc đọc của mình. Đó là việc chúng nên làm. 7. Điều cuối cùng và cũng rất quan trọng đó là hầu hết trẻ em đều thích đọc khi còn rất nhỏ. CHƯƠNG 6 Ai là người có vấn đề? Những người đọc sách hay những người không đọc sách? Có nhiều trẻ em được xem là có năng khiếu Và đó thường là những đứa trẻ thích Đọc sách từ khi còn rất nhỏ. Vì thế, nếu trẻ Muốn học thì hãy khuyến khích để chúng Trở thành những đứa trẻ có tài năng. WILLIAM FOWLER, Có một điều nghe có vẻ hoang đường khi cho rằng chỉ có các chuyên gia mới có thể hiểu được trẻ em. Trong số các chuyên gia tìm hiểu về trẻ em thì có rất nhiều người cho rằng: 1. Các bà mẹ không hiểu nhiều về con mình. 2. Các bà mẹ có những cái nhìn không chính xác chút nào về con mình. 3. Các bà mẹ thường hay nói dối về năng lực của con mình. Theo kinh nghiệm của chúng tôi thì sự thật vẫn là sự thật, chúng ta không thể đi quá xa so với sự thật. Khi chúng ta gặp những bà mẹ kể những câu chuyện lôi cuốn và không có thật về con của họ là những người không hiểu gì về chính mình thì chúng ta sẽ nghĩ rằng không phải ai cũng như vậy. Tuy nhiên, chúng ta cũng thấy những bà mẹ quan tâm đến các con, luôn để ý, quan sát con của mình và họ cũng là người rất đỗi thực tế. Vấn đề ở chỗ là không phải ai cũng lắng nghe các bà mẹ. Ở viện chúng tôi có hơn một nghìn phụ huynh của những đứa trẻ bị chấn thương não mỗi năm. Đối với các bà mẹ, không có điều gì đáng sợ hơn là có những đứa con bị chấn thương não. Và nếu một người mẹ thấy có biểu hiện 66 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] nghi ngờ của các chấn thương não, cô sẽ đưa con đi kiểm tra ngay lập tức và làm mọi thứ có thể để giúp con mình. Trong số hơn 1000 trường hợp ở viện có đến hơn 900 trường hợp chính các bà mẹ là người đầu tiên nhận ra rằng có trục trặc gì đó với con của mình. Trong hầu hết các trường hợp đó, các bà mẹ đều gặp khó khăn trong việc thuyết phục mọi người, trong đó có cả bác sĩ và các chuyên gia, rằng con họ đang có những dấu hiệu bất thường và cần phải làm cái gì đó để chữa cho con của họ. Bất chấp mọi người thuyết phục cô ấy quên ý nghĩ đó đi, thì cô vẫn kiên quyết điều mình nhận định cho tới khi mọi người nhận ra điều gì đang xảy ra với con của cô ấy. Có khi cô mất tới vài năm để mọi người có thể nhận ra tình hình. Cô càng yêu con bao nhiêu thì cô càng có thể đánh giá tình trạng của con mình một cách khách quan tuy nhiêu. Nếu đúng là con của cô ấy có vấn đề, thì chắc chắn cô không thể yên lòng cho đến khi đứa trẻ được bình thường. Vì thế, làm việc ở viện đã dạy cho chúng tôi cần phải biết lắng nghe các bà mẹ. Tuy nhiên, trong khi các chuyên gia có thể điều trị và đối xừ tốt với bọn trẻ thì đồng thời họ cũng làm cho các bà mẹ ngày càng thấy lo sợ. Họ thường xuyên nhồi nhét vào đầu những bà mẹ các thuật ngữ mà hầu như không ai hiểu. Tệ nhất là họ ngày càng làm cho những phản ứng bản năng của người mẹ bị mòn đi, nhằm thuyết phục những bà mẹ ấy rằng họ đang bị chính bản năng người mẹ của mình đánh lừa. Thật là vô lý. Theo trải nghiệm của chúng tôi rõ ràng là các bà mẹ luôn làm tốt nhất những gì họ có thể. Chính những trung tâm nghiên cứu về trẻ em trước tuổi đi học đã làm cho các bà mẹ chìm trong những điều vô lý và lo lắng, thậm chí làm cho họ mất dần đi bản năng làm mẹ. Ngày nay, có nhiều bà mẹ tin vào những điều mà họ nghĩ rằng đó là sự thật vì họ thấy điều đó lặp đi lặp lại nhiều lần. Chúng ta sẽ cố gắng giải tỏa những lầm tưởng chung sau một cách triệt để và ở góc độ này hay góc độ khác, đó đều là những suy nghĩ vô căn cứ. Lầm tưởng thứ nhất: Những đứa trẻ học đọc sớm thì sau này sẽ có những trục trặc trong quá trình học tập. Thực tế: Trong số những đứa trẻ mà cá nhân tôi biết hoặc những trường hợp mà chúng ta đã đọc, không có đứa trẻ nào bị như vậy cả. Thực ra, phần lớn các trường hợp đều thể hiện theo chiều hướng ngược lại. Kết quả của việc đọc sớm cũng đã được đưa ra. Chúng tôi thấy không thể hiểu được tại sao mọi người lại quá ngạc nhiên khi tỉ lệ trẻ em gặp khó khăn khi đọc ngày càng cao. Điều này không hề đáng ngạc nhiên. Điều đáng ngạc nhiên là có những người bắt đầu tập đọc giống như những người khác, trong khi năng lực đọc của người đó cao hơn. Lầm tưởng thứ hai: Trẻ em đọc quá sớm sẽ kém thông minh. Thực tế: Nào chúng ta hãy cũng nhau xem những đứa trẻ đọc sớm sẽ trở thành thần đồng hay kẻ ngu đần nhé. Thật ngạc nhiên khi có nhiều người thường suy nghĩ theo hai điều lầm tưởng này, trong khi đó thực tế là không có điều nào đúng. Lầm tưởng thứ ba: Những đứa trẻ tập đọc quá sớm sẽ gặp nhiều khó khăn khi học lớp Một. Thực tế: Điều này không hoàn toàn vô lý vì nó cũng đúng phần nào. Đứa trẻ đó sẽ gây ra một số rắc rối, không phải cho chính bản thân nó mà là cho giáo viên. Vì trường học là nơi dành cho học sinh hơn là cho giáo viên, nên giáo viên cần phải nỗ lực để giải quyết các vấn đề. Với những giáo viên có trình độ, họ có thể giải quyết các vấn đề của bọn trẻ biết đọc sớm trong thời gian ngắn, và sẽ có những nỗ lực cần thiết để giúp các em chưa biết đọc. Thực tế, giáo viên chủ nhiệm lớp một mà hầu hết học sinh đều biết đọc và thích đọc thì sẽ gặp ít rắc rối hơn với những học trò của mình. Trong khi đó, các giáo viên khác sẽ phải dành nhiều thời gian cho học sinh chưa biết đọc. 68 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] Thật tồi tệ khi giáo viên lớp Một không thể giải quyết mọi vấn đề một cách dễ dàng như là đối với những học sinh đã biết đọc khi bất đầu học lớp Một. Hàng trăm giáo viên giỏi của lớp Một đã giải quyết vấn đề này một cách đơn giản bằng cách đưa sách cho những bạn biết đọc rồi tự đọc, để cô có thể dành thời gian còn lại dạy các bạn khác bảng chữ cái. Nhiều giáo viên còn gọi học sinh đó đọc trước lớp cho các bạn nghe. Cậu bé sẽ thích thú với cơ hội được thể hiện tài năng của mình và những bạn khác sẽ đỡ sợ việc tập đọc hơn khi chúng thấy rằng chúng có thể đọc được như bạn của mình. Giáo viên giỏi sẽ có nhiều cách để giải quyết vấn đề trên. Chúng ta nghĩ thế nào về những giáo viên không có óc sáng tạo? Đó có phải là vấn để không? Đó là vấn đề với mọi học sinh học ở lớp mà giáo viên có trình độ kém. Một lớp mà có giáo viên như thế thì lợi thế sẽ thuộc về những học sinh đã biết đọc từ trước khi tới trường vì chúng cần ít sự trợ giúp của giáo viên ở lớp hơn so với các bạn khác, và chúng thường là những học sinh xuất sắc khi vào lớp Hai. Lầm tưởng thứ tư: Những đứa trẻ mà học đọc quá sớm sẽ thấy chán khi vào học lớp một. Thực tế: Đó là nỗi lo của hầu hết các bà mẹ và cũng là vấn đề dễ dàng nhận thay nhất. Để hiểu vấn đề đúng hơn, thì câu hỏi chính xác chúng ta cần đặt ra là "Những đứa trẻ mà đã đọc quá tốt liệu có thấy chán khi học lớp Một không"? Câu trả lời là có. Những đứa trẻ ấy có thể cũng thấy chán nản khi đi học lớp giống như những đứa trẻ khác. Cho dù trường học bây giờ tốt hơn ngày xưa nhiều nhưng nếu hỏi bất kỳ một học sinh lớp Một nào thì chúng đều bảo rằng ngày đi học dài hơn nhiều so với ngày nghỉ thứ Bảy và Chủ nhật. Vậy câu trả lời đó liệu có phải là chúng không muốn học. Cũng không hẳn là như vậy nhưng khi đứa trẻ 5 tuổi có thể nói được những đoạn hội thoại thành thạo thì chúng ta cũng có thể khuyến khích chúng đọc những loại khác như "Hãy xem chiếc xe Ô tô này, đó là chiếc xe màu đỏ rất đẹp". Một đứa trẻ bảy tuổi mà đọc những thứ như vậy sẽ không chỉ nhìn thấy đó là chiếc xe màu đỏ đẹp mà còn có thể nói cho bạn biết tên nhà sản xuất, năm sản xuất, kiểu dáng và thậm chí cả mã lực. Nếu bạn muốn biết thêm thông tin về chiếc xe đỏ ấy, bạn có thể hỏi cậu bé vì nó có thể biết nhiều hơn bạn đấy. Bọn trẻ tất nhiên sẽ thấy chán khi học ở trường cho đến khi chúng được đọc những thứ mà chúng thực sự thích. Vì thế nếu cho rằng trẻ em mà biết nhiều thì học sẽ thấy nhàm chán cũng có nghĩa là những đứa trẻ mà biết ít lại là những đứa luôn thấy thú vị, hào hứng. Nếu lớp học nhàm chán, thì tất cả đều nhàm chán. Nếu lớp học thú vị thì chỉ có những học sinh không hiểu gì mới thấy chán. Lầm tưởng thứ năm: Trẻ em tập đọc sớm thường đọc không đúng ngữ âm. Thực tế: Đứa trẻ đó có thể đọc không đúng ngữ âm, nhưng tình trạng đó không kéo dài. Việc tập đọc trước có thể ảnh hưởng tới việc đọc từ nhưng đó vẫn là một việc nên làm. Các tài liệu mà chúng tôi dùng ở viện để giúp bọn trẻ học đọc là các phương pháp, các bước để dạy trẻ tập đọc. Những phương pháp ấy dựa trên việc hiểu quá trình phát triển của não ở trẻ và dựa trên những kinh nghiệm tiếp xúc với những đứa trẻ khỏe mạnh cũng như với những đứa trẻ bị chấn thương não. Vì họ đều là những người có năng lực và kinh nghiệm làm việc với rất nhiều trẻ nhỏ. Sự thật đúng là như vậy. Con của bạn có thể bị đọc sai ngữ âm khi bạn dạy con bạn tập đọc từ lúc còn rất nhỏ và nếu tránh được điều đó thì mọi thứ sẽ tuyệt vời. 70 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] Lầm tưởng thứ sáu: Một đứa trẻ tập đọc sớm sẽ có vấn đề trong việc đọc sau này. Thực tế: Cũng có thể là như vậy nhưng khả năng này rất ít, và ít hơn so với khi cậu tập đọc sau này. Những đứa trẻ mà biết đọc rồi thì cũng không gặp mấy khó khăn, còn những đứa trẻ không biết đọc mới là có vấn đề. Lầm tưởng thứ bảy: Trẻ em học đọc sớm sẽ đánh mất tuổi thơ. Thực tế: Trong số những điều cấm kỵ đối với trẻ em xung quanh việc đọc, thì có lẽ đây là điều vô lý nhất. Chúng ta hãy cùng nhìn vào thực tế, chứ không dựa trên những câu chuyện viển vông để xác nhận nhé. Liệu một đứa trẻ hai, ba tuổi dành cả ngày để tận hưởng quãng thời gian tuyệt vời nhất, làm những việc mà nó thích làm Việc chúng thích làm nhất chính là tranh thủ từng phút để học, chơi cùng với gia đình. Không có gì có thể sánh với sự quan tâm của các thành viên trong gia đình. Đó là điều mà bọn trẻ nên làm. Nhưng trong xã hội của chúng ta, với nền văn hóa và nhịp sống như vậy thì tuổi thơ của bọn trẻ sẽ như thế nào? Những việc vặt vẫn thường được đặt ra: ai sẽ lau nhà, ai sẽ giặt là quần áo, ai sẽ nấu bữa tối, ai sẽ rửa bát, ai sẽ đi mua đồ? Trong mọi gia đình thì mẹ vẫn là người làm những công việc này. Một bà mẹ thông thái và kiên nhẫn có thể có những cách làm việc đó cùng với đứa con hai tuổi của mình, ví dụ như cùng chúng rửa bát giống như giới thiệu một trò chơi mới. Nếu cô ấy làm được như vậy thì việc đó sẽ trở nên nhẹ nhàng hơn. Tuy nhiên, phần lớn các bà mẹ mà chúng ta biết thì hầu như vẫn chưa thể rủ con cùng làm việc nhà với mình. Kết quả là một đứa trẻ hai tuổi mà may mắn được mẹ chăm sóc thì cả ngày hầu như chỉ biết gào khóc đòi ra khỏi cũi. Bà mẹ phải để trẻ trong cũi để nó khỏi bị điện giật, bị kẹp tay, cắt vào tay hay bị ngã trong khi cô đang bận làm việc. Đây có phải là tuổi thơ quý giá bị lãng phí mà chúng ta đang nói đến nếu như đứa trẻ dành nó cho việc tập đọc. Đó chính là tuổi thơ của hầu hết mọi đứa trẻ, dù ít dù nhiều. Nếu nhà bạn không như vậy, bạn là người có thể để mắt quan tâm tới con cả ngày, bạn nghĩ rằng bạn không phải lo lắng thì đó chính là cơ hội tốt dạy con tập đọc, chứ đừng dành cả ngày chỉ để dạy con chơi trò xếp hình. Chúng ta đều thấy các bà mẹ dù bận thế nào cũng cố gắng dành thời gian bên cạnh con trong những năm tháng đầu đời. Nhưng vấn đề là nên dành khoảng thời gian ấy như thế nào sao cho hiệu quả, hữu ích và vui vẻ. Tất nhiên không ai muốn lãng phí những phút giây mà giúp chúng ta khiến con mình vui hơn, sáng tạo hơn, giỏi giang hơn. Chúng ta là những người dành thời gian của mình cho một tổ chức nghiên cứu về quá trình phát triển ở trẻ mà chúng ta đã bị thuyết phục rằng không có cách nào hiệu quả và vui vẻ hơn cách các bà mẹ dành thời gian cùng con mình đọc. Niềm vui mà bố mẹ và con cái nhận thấy khi trẻ tập đọc từ, câu và cả một cuốn sách rất khó tả. Đây chính là điều quý giá cần làm trong suốt thời thơ ấu của trẻ. Chúng ta có thể đưa ra kết luận bằng cách trở lại ví dụ về Miillie và bố mẹ của cô. Trong bài viết về Miillie, bố của cô đã nhận xét một cách chính xác và ngắn gọn rằng: nếu việc tập đọc không có vị trí trong tâm trí con của bạn thì sẽ có những việc khác vô bổ chiếm tâm trí chúng." Còn mẹ của Millie với bổn phận của một phụ nữ thì kết luận rằng: "Cả nhà chúng tôi đều mang lại niềm vui cho nhau nhiều đến mức chúng tôi hầu như không để ý tới những người xung quanh. Liệu như vậy có ích kỷ không Lầm tưởng thứ tám: Trẻ em tập đọc sớm thì sẽ "chịu nhiều áp lực Thực tế: Nếu điều lầm tưởng này ám chỉ rằng việc dạy trẻ tập đọc có thể mang đến những áp lực cho trẻ, thì điều này là đúng. Khi ta dạy trẻ bất kỳ việc gì cũng là chúng ta đã mang áp lực đến với chúng. 72 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] Việc ép buộc một đứa trẻ là một việc không nên và các phụ huynh nên biết điều đó. Vấn đề quan trọng là chúng ta nên khuyến khích trẻ như thế nào để trẻ tận dụng được quá trình tập đọc ấy. Nếu bạn đọc quyết định làm theo những lời khuyên trong cuốn sách này thì câu trả lời sẽ là không có gì liên quan giữa áp lực với cách trẻ học đọc như thế nào. Mà thực chất là chúng ta không chỉ khuyên các phụ huynh không nên gây áp lực cho con mà chúng ta còn khẳng định rằng không nên cho trẻ đọc nếu như cả bố mẹ và các con chưa sẵn sàng hoặc không hào hứng với việc đọc. Ngoài ra, còn có rất nhiều câu chuyện kinh khủng khác xung quanh việc dạy trẻ tập đọc trước khi đến trường, nhưng dựa trên trải nghiệm của mình, chúng tôi nhận thấy chưa có một kết quả đáng buồn nào. Những dự đoán hậu quả kinh khủng kia chủ yếu dựa trên sự thiếu hiểu biết về quá trình phát triển não bộ của trẻ, mà việc đọc là một phần trong quá trình phát triển ấy. Do đó chúng ta có thể làm theo một trong những điểm quan trọng mà cuốn sách này đã cố gắng để ra. Nói một cách đơn giản dựa trên quan điểm về hệ thần kinh thì đọc không phải là một môn học ở trường mà đó là một chức năng hoạt động của não. Đọc ngôn ngữ là một chức năng hoạt động của não giống như chức năng nghe ngôn ngữ. Khi xem xét các môn học ở trường của trẻ, chúng ta sẽ phản ứng như thế nào nếu chúng ta thấy chúng học địa lý chính tả, nghe, giáo dục công dân Chắc chắn chúng ta sẽ thắc mắc sao nghe lại là một môn học ở trường vì chúng ta biết chắc rằng đó là một hoạt động của não chứ không phải là một môn học. Đọc cũng như vậy. Chính tả thì đúng là một môn cần dạy ở trường. Một đứa trẻ có thể đọc rất hay mà không nhất thiết phải viết chính tả giỏi. Đó là hai hoạt động hoàn toàn khác nhau và rất đa dạng. Đọc là hoạt động của não, còn chính tả là môn học với những quy tắc con người đưa ra để cho đọc và viết đúng. Khi giáo viên dạy chính tả, tức là đang tiếp tục truyền đạt những kiến thức mà con người tích lũy được. Còn khi một đứa trẻ đọc, não của nó không đi sâu vào tìm hiểu xem một từ được cấu trúc như thế nào, mà nó quan tâm đến việc giải thích ý nghĩa của từ đó. Hãy để cho người đọc tự ngẫm hai câu hỏi sau: 1. Liệu trẻ có thể đọc bất kỳ từ nào đó mà nó không biết cách viết Tất nhiên là có rồi, rất nhiều. 2. Liệu trẻ có thể viết một từ mà nó không biết đọc Tất nhiên là không. Đọc là chức năng hoạt động của não và chính tả là một loạt những quy tắc. Chúng ta có thể đọc và hiểu một từ mà chúng ta không biết viết nó, thậm chí não của chúng ta vẫn có thể đọc và hiểu một từ mà chúng ta không biết phát âm từ đó. Có bao nhiêu từ chính xác chúng ta được học ở trường? Số ấy chiếm tỉ lệ rất ít. Chúng ta đến trường chủ yếu là học từ mới trong văn nói. Chúng ta được học đọc, với vài nghìn từ và tập viết nhiều âm cũng vài nghìn từ. Còn khoảng 10 nghìn từ còn lại thì chúng ta phải tự học, tự biết bằng cách nghe và tìm hiểu trong từ điển. Như vậy có phải là chúng ta đang muốn phản đối lại việc học môn chính tả của trẻ? Tất nhiên là không rồi. Chính tả là một môn học ở trường và là một trong những môn quan trọng nhất cho trẻ. Chúng ta hãy nhìn lại một lẫn nữa để xem ai là người thực sự có vấn đề khi đi học. Cứ nhìn vào danh sách mười học sinh giỏi nhất lớp, bạn sẽ thấy đâu là nhân tố chung cho năng lực vượt trội đó. Đó là những học sinh đọc rất tốt. 74 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] CHƯƠNG 7 Nên dạy trẻ đọc như thế nào? Các bà mẹ chính là người thợ gốm và các Con chính là đất sét để mẹ nặn thành các Sản phẩm tuyệt vời. - WINIFRED SACKVILLE STONER Hầu hết các phương pháp đều nói rằng nếu không làm theo đúng các bước thì chúng cũng không có tác dụng. Nhưng ngược lại, chúng ta cũng có thể nói rằng, nếu chúng ta không hướng được con mình đến việc đọc, thì chúng vẫn học nếu bạn chưa dạy chúng và điều này giống như một trò chơi mà bạn vẫn thắng cho dù bạn chơi không cố gắng. Tuy nhiên, khi dạy trẻ học đọc, bạn càng "chơi" cẩn thận thì con bạn học sẽ càng nhanh và càng tốt. Nếu bạn chơi trò tập đọc ấy một cách chuẩn xác thì cả bạn và con bạn đều thấy vô cùng thích thú. Bạn chỉ cần dành ra nửa tiếng mỗi ngày thôi. Chúng ta hãy điểm lại những điểm chính cần nhớ về bọn trẻ trước khi thảo luận nên dạy chúng đọc như thế nào. 1. Trẻ dưới 5 tuổi dễ dàng có những mong muốn tìm hiểu lượng thông tin lớn. Nếu trẻ dưới 4 tuổi thì việc tiếp nhận thông tin dễ hơn và hiệu quả hơn, dưới 3 tuổi thì càng dễ và hiệu quả hơn, và dưới 2 tuổi là đơn giản và hiệu quả nhất. 2. Trẻ dưới 5 tuổi có thể tiếp nhận thông tin nhanh một cách bất ngờ. 3. Trẻ dưới 5 tuổi tiếp nhận thông tin càng nhiều thì càng nhớ. 4. Trẻ dưới 5 tuổi có một lượng năng lực dồi dào. 5. Trẻ dưới 5 tuổi có ham muốn tìm hiểu vô cùng lớn. 6. Trẻ dưới 5 tuổi có thể học đọc và muốn học. 7. Trẻ dưới 5 tuổi học một ngôn ngữ trọn vẹn và có thể học được nhiều ngôn ngừ. Chúng có thể học đọc một hoặc vài ngôn ngữ tốt như chúng hiểu ngôn ngữ nói. Độ tuổi bắt đầu? Câu hỏi khi nào bắt đầu dạy trẻ tập đọc để nhiều người quan tâm. Khi nào thì trẻ sẵn sàng học? Có lần, một bà mẹ hỏi một nhà nghiên cứu về quá trình phát triển của trẻ rằng khi nào thì cô nên cho con mình học. Khi nào ư? ông hỏi lại. "Khi nào con của bà ra đời?" "ồ cháu đã 5 tuổi rồi." Bà mẹ trả lời. "Vậy thì bà hãy về nhà nhanh đi nếu không bà sẽ lãng phí 5 năm đầu đời tuyệt nhất của con mình đấy", vị chuyên gia trả lời. Vì hai năm sau đó, trẻ em sẽ càng khó học đọc hơn. Nếu trẻ 5 tuổi thì việc đó sẽ đơn giản hơn là khi nó 6 tuổi, 4 tuổi thì dễ hơn và 3 tuổi thì càng đơn giản. Số tuổi càng ít đi thì càng tốt để cho trẻ bắt đầu học, mà lại khiến bạn không mất quá nhiều thời gian trong việc dạy chúng đọc. Bạn có thể bắt đầu quá trình dạy con ngay từ khi con bạn mới sinh ra. Bạn nói chuyện với con bạn từ khi con còn chưa sinh ra - đó chính là con đường truyền đạt qua thính giác. Chúng ta cũng có thể dạy con bằng thị giác hay còn gọi là con đường trực quan. Có hai điểm chính liên quan tới việc dạy trẻ: 1. Thái độ và phương pháp của bạn 2. Tài liệu bạn dạy con (thứ tự và lượng tài liệu) Thái độ và phương pháp của cha mẹ Học chính là chuyến phiêu lưu thú vị của cuộc đời. Nó như một ham muốn, một điều tất yếu và trên tất cả nó như một trò chơi thú vị và tuyệt vời nhất trong 76 [DẠY TRẺ BIẾT ĐỌC SỚM – TÁC GIẢ: GLENN DOMAN] cuộc đời Trẻ em tin vào điều này và luôn luôn tin là như thế trừ khi chúng ta cố thuyết phục chúng là không đúng như thế. Nguyên tắc cơ bản là cả bố mẹ và con cái cùng tiếp cận việc này một cách vui vẻ như bắt đầu một trò chơi. Các ông bố, bà mẹ cần nhớ rằng học tập là một trò chơi thú vị nhất trong cuộc sống chứ không phải là một nhiệm vụ cần phải hoàn thành. Đó chính là một phần thưởng của cuộc sống chứ không phải là một hình phạt, nó như một trò tiêu khiển chứ không phải là việc nhà, nó là một đặc ân chứ không phải là sự tước bỏ. Bố mẹ cần phải nhớ điều này và đừng làm gì phá hỏng thái độ học tập vốn có của trẻ. Có một nguyên tắc an toàn mà bạn không được quên đó là nếu bạn và con cùng học mà không cảm nhận được niềm vui thì bạn nên dừng lại vì bạn đang làm sai một bước nào đó. Thời điểm tốt nhất để dạy Nếu như người mẹ và con của mình học đọc mà cảm thấy không vui thì tốt nhất là bà mẹ nên dừng trò chơi lại Nếu đứa trẻ cảm thấy khó chịu, mệt mỏi hoặc đói thì đó không phải là lúc phù hợp cho bài đọc. Vào những hôm tồi tệ, tốt nhất là không nên chơi trò tập đọc này. Một bà mẹ thông thái sẽ để trò chơi ấy sang một hôm khác khi bà cảm thấy con mình vui vẻ và sẵn sàng cho buổi đọc, và như thế hứng khởi sẽ được tăng lên nhiều nếu chúng ta biết chọn đúng thời điểm. Đừng bao giờ dạy con mình bất cứ điều gì khi chúng đang đói hoặc mệt mỏi, khó chịu. Trước tiên, hãy tìm hiểu xem điều gì làm chúng khó chịu và giải quyết, sau đó hãy lôi cuốn chúng trở lại bài học để có những buổi học vui vẻ cùng nhau. Lượng thời gian phù hợp nhất Hãy nhớ rằng lượng thời gian bạn chơi trò học đọc cùng con là không quá dài. Đầu tiên, bạn nên chơi cùng con ba lần một tuần, nhưng mỗi b...